Trên trái đất có hơn 117 triệu hồ nước mang nhiều vẻ đẹp khác nhau. Cùng khám phá những hồ nước đẹp nhất, đặc sắc nhất, mang lại nhiều cảm hứng cho du khách trên thế giới.
Trên trái đất có hơn 117 triệu hồ nước mang nhiều vẻ đẹp khác nhau. Cùng khám phá những hồ nước đẹp nhất, đặc sắc nhất, mang lại nhiều cảm hứng cho du khách trên thế giới.
Hồ Hillier là một hồ nước mặn ở rìa Middle Island , là hồ lớn nhất trong số các đảo và đảo nhỏ tạo nên Quần đảo Recherche ở vùng Goldfields-Esperance , ngoài khơi bờ biển phía nam của Tây Úc . Nó đặc biệt đáng chú ý với màu hồng của nó . Một bờ biển dài và mỏng chia cắt Nam Đại Dương với hồ.
Hồ Hillier có chiều dài khoảng 600 mét (2.000 ft) và chiều rộng khoảng 250 m (820 ft). Hồ được bao quanh bởi một bờ cát và rừng rậm gồm những cây tràm và bạch đàn với một dải hẹp của cồn cát bao phủ bởi thảm thực vật tách rìa phía bắc của nó từ bờ biển phía bắc của Middle Island. Đặc điểm đáng chú ý nhất của hồ là màu hồng, rực rỡ. Màu sắc rực rỡ là vĩnh viễn và không thay đổi khi nước được lấy vào bình chứa. Màu hồng được coi là do sự hiện diện của sinh vật Dunaliella salina.
Các sinh vật sống duy nhất trong Hồ Hillier là các vi sinh vật bao gồm Dunaliella salina , tảo đỏ khiến hàm lượng muối trong hồ tạo ra chất nhuộm màu đỏ hồng đặc. Mặc dù có màu sắc bất thường, nhưng nước hồ không có tác dụng phụ nào đối với con người.
Mặc dù có hàm lượng muối cao (tương đương với ở Biển Chết ), Hồ Hillier vẫn an toàn để bơi. Tuy nhiên, du khách không được phép tham quan khi chưa được Cục Bảo tồn Môi trường Tây Úc chấp thuận. Tuy nhiên, vẫn có vài cách để thưởng ngoạn vẻ đẹp của Hồ Hillier. Các chuyến bay ngắm cảnh bằng máy bay là phương pháp phổ biến nhất, với sáu chuyến bay mỗi ngày khởi hành từ Sân bay Esperance, bay qua Hồ Hillier qua Công viên Quốc gia Cape Le Grand gần đó. Du lịch trên biển cũng là một lựa chọn cho những hành khách muốn tham quan hồ biệt lập và khu vực rừng xung quanh.
Hồ Bled ( tiếng Slovenia : Blejsko jezero ; tiếng Đức : Bleder See, Veldeser See ) là một hồ ở dãy núi Julian Alps của vùng Upper Carniolan thuộc tây bắc Slovenia , nơi nó tiếp giáp với thị trấn Bled. Đây là địa điểm du lịch hấp dẫn với khung cảnh đẹp như tranh vẽ.
Hồ hình thành do tác động của kiến tạo địa chất lẫn sông băng. Nó dài 2.120 m (6.960 ft), rộng 1.380 m (4.530 ft) và sâu nhất tại 29,5 m (97 ft). Trong hồ có một đảo nhỏ cùng tên. Hồ nước nằm trong một khu vực có cảnh quan đẹp như tranh vẽ, được bao bọc bởi núi và rừng. Phía bắc của hồ là lâu đài Bled thời Trung cổ. Phía tây là Thung lũng Zaka, nơi được biết đến với những giá trị khảo cổ quan trọng.
Hồ Bled từng là nơi diễn ra Giải vô địch Rowing thế giới vào các năm 1966, 1979, 1989 và 2011.
Nằm ở phía nam Siberia , Hồ Baikal là hồ sâu nhất thế giới — nó thậm chí đạt độ sâu một dặm ở một số điểm — và cũng là nơi sinh sống của hải cẩu nước ngọt duy nhất trên hành tinh của chúng ta. Mùa đông đến, hồ biến thành một xứ sở thần tiên thực sự , với những hang động băng lởm chởm hình thành xung quanh lòng chảo và bong bóng trở nên đóng băng theo thời gian dưới mặt nước.
Đây là hồ nước ngọt có lượng nước lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 22-23% tổng lượng nước ngọt không bị đóng băng quanh năm trên bề mặt thế giới. Với 23,615.39 km3 nước ngọt, nó nhiều hơn cả năm hồ nước của Ngũ Đại Hồ cộng lại. Độ sâu tối đa của hồ là 1.642 m, nên Baikal chính là hồ sâu nhất thế giới được coi là một trong số những hồ trong nhất và cũng là hồ lâu đời nhất thế giới khi nó hình thành cách đây 25-30 triệu năm trước. Xét về diện tích bề mặt, đây là hồ nước lớn thứ bảy trên thế giới.
Hồ được bao quanh bởi những ngọn núi; Dãy núi Baikal ở bờ phía bắc, dãy Barguzin ở bờ đông bắc và các cánh rừng taiga được bảo vệ như một công viên quốc gia.
Hồ có 27 hòn đảo; lớn nhất là hồ Olkhon, dài 72 km (45 dặm) và là hòn đảo trên hồ lớn thứ ba thế giới. Hồ được 330 dòng sông chảy vào. Những con sông chính chảy trực tiếp vào hồ Baikal là Selenga, Barguzin, Upper Angara, Turka, Sarma và Snezhnaya. Nó được dẫn lưu thông qua một lối thoát duy nhất, Angara.
Baikal là một trong những hồ nước trong nhất thế giới. Vào mùa đông, ở những khu vực mở, độ trong của nó có thể thấy được độ sâu từ 30–40m nhưng trong suốt mùa hè, thường là chỉ ở mức từ 5–8m. Hồ Baikal rất giàu Ôxy, ngay cả ở những khu vực nước sâu, tách ra khỏi những khối phân tầng nước rõ rệt như tại Hồ Tanganyika và Biển Đen.
Nổi tiếng nhất và được tìm thấy trong khắp vùng hồ là loài Hải cẩu Baikal. Đây là một trong ba quần thể hải cẩu sống hoàn toàn trong khu vực nước ngọt trên thế giới, hai phân loài còn lại của Hải cẩu đeo vòng tại Bắc Âu. Chúng được cho đã di chuyển đến đây từ Bắc Băng Dương hơn 800.000 năm trước, những chú hải cẩu nhỏ da trơn này đã trở thành biểu tượng của vùng di sản thiên nhiên Baikal diệu kỳ. Hải cẩu Baikal hay ẩn náu nên rất khó quan sát. Du khách đến đây thường chọn cách đến thăm vườn nuôi ở Irkutsk hoặc Listvyanka.
Baikal có một số hoạt động du lịch khác nhau, tùy theo mùa. Nói chung, Baikal có hai mùa du lịch hàng đầu. Mùa đầu tiên là mùa đông, thường bắt đầu vào giữa tháng 1 và kéo dài đến giữa tháng 4. Trong mùa này, độ dày của lớp băng trên hồ tăng lên tới 140 cm, cho phép lái xe an toàn trên lớp băng (trừ các phương tiện hạng nặng, như xe buýt du lịch). Điều này cho phép du khách nhìn của băng được hình thành tại các bờ đá của đảo Olkhon, bao gồm Mũi Hoboy, đá Three Brothers và các hang động ở phía Bắc Khuzhir. Du khách cũng có thể đi vào các hòn đảo nhỏ như Đảo Ogoy và Zamogoy.
Mùa du lịch thứ hai là mùa hè, cho phép khách du lịch khám phá thiên nhiên Baikal nhiều hơn. Những con đường mòn đi bộ trở nên mở, nhiều trong số chúng băng qua hai dãy núi: dãy núi Baikal ở phía tây và dãy Barguzin ở phía đông của Baikal. Con đường mòn phổ biến nhất bắt đầu ở Listvyanka và đi dọc theo bờ biển Baikal đến Bolshoye Goloustnoye.
Ngôi làng đông dân nhất của Olkhon Khuzhir là một điểm đến du lịch sinh thái. Baikal luôn được ưa chuộng ở Nga và các nước thuộc Cộng đồng các Quốc gia Độc lập
Biển Chết (tiếng Ả Rập: البحر الميت, tiếng Hebrew: ים המלח) hay Tử Hải là một hồ nước mặn nằm trên biên giới giữa Bờ Tây, Israel và Jordan trên thung lũng Jordan. Khu vực chứa nước bị hãm kín này có thể coi là một hồ chứa nước có độ mặn cao nhất trên thế giới.
Biển Chết dài 76 km, chỗ rộng nhất tới 18 km và chỗ sâu nhất là 400 m. Bề mặt biển Chết nằm ở 417,5 m (1.369 ft) dưới mực nước biển.
Biển Chết có sức lôi cuốn đặc biệt và các du khách từ các khu vực xung quanh Địa Trung Hải trong hàng nghìn năm qua. Nó là nơi nương tựa của Vua David, một trong các nơi nghỉ ngơi đầu tiên trên thế giới của Herod Đại đế, và là nguồn cung cấp các sản phẩm khác nhau như nhựa thơm cho việc ướp xác của người Ai Cập cho tới bồ tạt để làm phân bón.
Khoảng 3 triệu năm trước thì cái mà ngày nay là thung lũng sông Jordan, biển Chết và Wadi Arabah/Nahal Arava là khu vực ngập nước ở Địa Trung Hải. Nước đã tạo ra một vịnh hẹp và quanh co, thông ra biển cả bằng cái mà ngày nay là thung lũng Jezreel. Mực nước ở khu vực này lên và xuống phụ thuộc vào sự thay đổi khí hậu trong một thời gian dài. Hồ bị chiếm giữ bởi đứt gãy Biển Chết có tên gọi là "hồ Sodom", tạo ra các lớp muối trầm tích mà cuối cùng dày tới 3 km (2 dặm).
Theo thuyết địa chất, khoảng 2 triệu năm trước các vùng đất nằm giữa Đại Thung Lũng và Địa Trung Hải được nâng lên đến mức mà đại dương không còn khả năng gây ngập úng cho khu vực này nữa từ đó hình thành nên một hồ dài. Hồ thời tiền sử này có tên gọi "hồ Gomorrah". Hồ Gomorrah đã từng là hồ nước ngọt hay nước lợ dài ít nhất 80 km (50 dặm) vè phía nam của phần kết thúc hiện tại của biển Chết và 100 km (60 dặm) về phía bắc, vượt qua cả vùng đất lún Hula ngày nay. Khi khí hậu trở nên khô cằn hơn, hồ Samra co lại và trở nên mặn hơn. Hồ lớn chứa nước mặn là tiền nhiệm của biển Chết có tên gọi là "hồ Lisan".
Biển này được gọi là "Chết" do độ mặn quá cao của nó làm cho cá hay các thủy sinh vật lớn không thể sống trong nước của nó, mặc dù một lượng rất nhỏ vi khuẩn và nấm mốc có thể tồn tại. Tuy vậy, có rất nhiều loài động vật sinh sống trong các dãy núi xung quanh biển Chết. Người ta có thể nhìn thấy các con lạc đà, dê rừng, thỏ, chó rừng, cáo và thậm chí cả báo hoa mai. Cả Jordan và Israel đã thành lập các khu bảo tồn xung quanh biển Chết. Có hàng trăm loài chim cũng sinh sống trong khu vực này.
Hồ Crater là một hồ nước hõm chảo ở tây Hoa Kỳ, tọa lạc ở nam trung bộ Oregon. Nó là cảnh quan chính của vườn quốc gia Crater Lake và nổi tiếng với màu nước xanh da trời đậm và độ trong của nước.
Hồ được hình thành khoảng 7.700 bởi sự sụp đổ của núi lửa núi Mazama. Là một phần của Dãy Cascade, ngọn núi lửa này hiện đã yên tĩnh trong khoảng 6.000 năm. Tuy nhiên, một lượng nhỏ các hoạt động địa nhiệt vẫn thường xuyên xuất hiện dọc theo đáy của Hồ Crater. Không có sông chảy ra hay chảy vào hồ này; lượng nước bay hơi được bù vào bằng nước mưa và tuyết rơi ở mức mà nước được thay thế mỗi 250 năm. Với độ sâu 1.949 foot đây là hồ sâu nhất ở Hoa Kỳ, là hồ sâu thứ ba thế giới nếu tính theo độ sâu tối đa hoặc thứ chín thế giới theo mức sâu trung bình.
Khu vực này có khí hậu cận nhiệt đới. Do độ cao lớn và ảnh hưởng của Đỉnh cao Bắc Thái Bình Dương , nó có khí hậu mùa hè khô hạn rất hiếm. Do đó, mùa hè có xu hướng khô và ôn hòa, nhưng mùa đông lại lạnh, với lượng tuyết rơi rất lớn.
Có lẽ đáng chú ý nhất, địa điểm gây ấn tượng với tên gọi Crater Lake vẫn được biết đến nhiều nhất, và trên thực tế khá nổi tiếng, vì hai điều. Điều này, khá dễ hiểu, bao gồm màu sắc tuyệt đẹp và độ trong đáng kinh ngạc của nước. Màu xanh đặc biệt nổi tiếng của nước là do sự kết hợp của độ trong và độ sâu cực lớn của nó. Nhưng sự độc đáo đáng chú ý của kỳ quan thiên nhiên này không chỉ dừng lại ở đó.
Có hai hòn đảo nhỏ trong ranh giới của hồ là Đảo Wizard và Phantom Ship. Người Mỹ bản địa đã biết đến địa điểm tuyệt đẹp ngày nay được gọi là Hồ Crater trong nhiều thế kỷ trước khi được khám phá bởi các nhà thám hiểm châu Âu. Người đầu tiên trong số những cá nhân hoặc nhóm này báo cáo việc nhìn thấy nó là John Wesley Hillman, vào năm 1853.
Old Man of the Lake (tạm dịch: Ông già của hồ nước) là tên gọi của một thân gỗ nổi dựng đứng trong hồ Crater ở nam trung bộ Oregon, tây Hoa Kỳ, từ năm 1896. Thân gỗ này có chiều dài khoảng 30 foot (9 m), phần thân gỗ nhô lên khỏi mặt nước dài 1,2m và có đường kính khoảng 60 cm. Thân gỗ luôn nhấp nhô theo chiều dọc thẳng đứng trong nước. Bề mặt của thân gỗ đã được tẩy trắng do các yếu tố môi trường xung quanh tác động trong một thời gian dài trên 120 năm. Phần thân gỗ nổi trên mặt nước cũng bị bào mòn theo thời gian, nó có độ rộng đủ để nâng nổi cho một người khi đứng.
Từ lâu, hồ Crater và thân cây "Ông già của hồ nước" đã được các du khách khi đến Oregon coi là điểm tham quan thú vị. Họ cho rằng thân cây "Ông già" là một nhân vật và là nhân chứng lịch sử gắn liền với địa danh hồ Crater nổi tiếng.
Hồ Attabad hay còn được biết đến với tên gọi là Hồ Gojal là một hồ nước được hình thành vào tháng 1 năm 2010 bởi một vụ sạt lở đất. Hồ nước này nằm ở Gojal, một vùng thung lũng phía Bắc Pakistan.
Sau cơn nổi giận của thiên nhiên khiến núi non sạt lở lớn, địa chất khu vực nhanh chóng thay đổi. Ngôi làng Attabad bị chôn vùi trong lòng đất, khoảng 6.000 người buộc phải di dời. Hơn 20 km cao tốc Karakoram, con đường duy nhất kết nối vùng đất xa xôi với bên ngoài, bị hư hại. Khu vực thoát nước của sông Hunza bị phá hủy. Dòng nước vì thế nhanh chóng bị chặn lại và đạt đến độ sâu tối đa. Hồ Attabad thẳm xanh ngọc lục bảo được tạo ra từ sự tàn phá đó.
Hồ Attabad liên tục được mở rộng. 5 tháng sau thảm họa, hồ đã dài khoảng 21 km, nép mình dọc theo những dãy núi trong thung lũng hẹp Hunza như một con rắn khổng lồ màu xanh ngọc. Không gian non nước tạo nên vẻ đẹp ngoạn mục cho thung lũng Gilgit, trở thành sức hút mới đối với khách du lịch khi tới Pakistan. Người dân bắt đầu xây dựng khách sạn và nhà nghỉ xung quanh hồ, với nhiều hoạt động giải trí khác nhau như chèo thuyền, câu cá…
Nhưng đối với những người bị ảnh hưởng trong cơn thảm họa, thực tế không hoàn toàn đẹp như tranh vẽ. Thảm họa Attabad đã nhấn chìm bốn ngôi làng, Ainabad, Shishkat, Gulmit và Gulkin. Các vườn táo với những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, các di tích Phật giáo, nhà thờ Hồi giáo, đền đài và những ngôi nhà gỗ được chạm khắc tỉ mỉ đều bị trôi theo dòng nước. Quân đội đã sơ tán người dân địa phương, di chuyển họ đến các thung lũng khác.
Khi đường cao tốc bị ngập, các phương tiện, hành khách và hàng hóa phải băng qua mặt nước trên những chiếc thuyền gỗ. Mặc dù chuyến đi này có thể là trải nghiệm thú vị cho khách du lịch, với những người lái xe tải hay dân địa phương, đó thực sự là một rắc rối lớn.
Năm năm sau, đường cao tốc Karakoram được tu sửa và chuyển hướng dọc theo bờ hồ. Cuộc sống của người dân hiện bắt đầu trở về như cũ.
Thung lũng Hunza được du khách ví là thiên đường trên Trái đất, với khung cảnh yên bình, núi non hùng vĩ. Nằm ở độ cao 2.438 m, nơi đây có thể hạ nhiệt độ dưới 0 độ C, có tuyết vào mùa đông. Mùa du lịch ở đây bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10.
Để tới được thung lũng Hunza, du khách có thể bắt chuyến bay tới Islamabad, thủ đô của Pakistan. Từ đây, khách có thể chọn chuyến bay thẳng tới sân bay Gilgit và lái xe 2-3 tiếng tới thung lũng. Có nhiều dịch vụ cho thuê xe ở đó. Ngoài cách trên, ngồi xe khách 24 tiếng cũng là cách tới thung lũng. Du khách có thể vừa ngắm được cảnh đẹp trên hành trình của mình.
Hồ Nakuru là một trong số các hồ soda Thung lũng Tách giãn Lớn nằm ở độ cao 1.754 mét so với mực nước biển. Hồ nước nằm ở phía nam thành phố Nakuru, trong thung lũng Tách giãn Lớn ở Kenya. Nó được bảo vệ bởi Vườn quốc gia Hồ Nakuru thành lập năm 1961.
Nhờ có sự phong phú của tảo trong lòng hồ khiến nó trở thành một nơi thu hút số lượng lớn loài hồng hạc cùng một số loài chim khác. Nó cũng là nơi có nhiều loài sinh sống quanh và tới đây uống nước như khỉ đầu chó, lợn bướu và nhiều loài động vật có vú lớn khác. Tại vườn quốc gia cũng là nơi có số lượng nhỏ cá thể tê giác trắng và tê giác đen.
Hồ Nakuru là một hồ kiềm, thay đổi diện tích từ 5–45 km². Nó nằm cách 164 km về phía bắc thủ đô Nairobi. Hồ Nakuru nổi tiếng trên toàn thế giới nhờ cảnh quan ấn tượng của hàng triệu chim hồng hạc kiếm ăn.
Nguồn thức ăn của những con hồng hạc này chính là tảo, nhóm thực vật phát triển mạnh ở những vùng nước ấm giống như ở Nakuru. Thông thường, hồ Nakuru rút nước trong mùa khô và lũ lụt trong mùa mưa.
Khu vực bảo tồn được thành lập vào năm 1961, có diện tích 188 km², bao gồm hồ Nakuru và vùng xung quanh. Nó được biết đến với hàng triệu con chim hồng hạc làm tổ và kiếm ăn dọc theo hồ. Nơi quan sát tốt nhất toàn cảnh hồ nước để chứng kiến loài hồng hạc chính là từ vách đá Babboon (vách khỉ đầu chó) nằm gần hồ. Khu vực xung quanh hồ là nơi bảo tồn các loài cực kỳ nguy cấp bao gồm hươu cao cổ Rothschild, tê giác đen, tê giác trắng.
Theo số liệu thống kê năm 2009, vườn quốc gia có 25 cá thể tê giác đen, một trong số những nơi có số lượng tê giác đen đông nhất Kenya, cùng với 70 cá thể tê giác trắng và số lượng ít cá thể hươu cao cổ Rothschild.
Nơi đây cũng khá phổ biến loài linh dương nước cùng các loài thú săn mồi như sư tử, báo săn, báo hoa mai.
Trong các khu rừng rậm là sự xuất hiện của trăn.
Ngoài hồng hạc, vườn quốc gia còn có sự xuất hiện của rất nhiều loài chim khác gồm đại bàng cá châu Phi, diệc khổng lồ, cò đầu búa, bói cá nhỏ, đại bàng đen.
Guatemala nơi nền văn minh phát triển nhất Châu Mỹ thời tiền Colombia. Đất nước này có hơn 40% dân số là nguồn gốc bản địa. Sở hữu rất nhiều di sản văn hóa thế giới, nơi đây lại được tạo hóa ưu đãi thêm hồ Atitlan. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt sắc, hồ Atitlan còn truyền tụng là nơi có thể chữa lành mọi bệnh tật, nên được ví như mụ phù thủy cao tay của Guatemala.
Atitlan, hồ nước đẹp nhất ở Guatemala, nằm ở phía Tây Nam của Guatemala, cách phía Tây thủ đô Guatemala 60 km. Hồ được tạo ra từ miệng của ngọn núi lửa khổng lồ phun trào cách đây 84.000 năm.
Nhà thám hiểm người Đức Alexander von Humboldt đã từng thốt lên đây là hồ nước đẹp nhất thế giới. Hay nhà văn gốc Anh Aldous Huxley đã viết về Atitlan: “Đối với tôi, hồ Atitlan đẹp như tranh vẽ. Nó thực sự đẹp trên tất cả mọi thứ”.
Atitlan là hồ sâu nhất ở Trung Mỹ, khoảng 340 mét, diện tích 130 km² và phía Nam được bao bọc bởi ba ngọn núi lửa lớn (San Pedro, Atitlan và Tolimánet).
Santiago Atitlan và Panajachel là hai thành phố du lịch lớn nhất bên hồ, ngoài ra còn có một loạt các quán bar, nhà hàng và khách sạn, rất nhiều thị trấn và những ngôi làng trù phú e ấp nép mình bên dòng hồ xanh mát.
Cư dân ở đây đa số nói tiếng Tây Ban Nha, và họ rất hiếu khách, họ luôn chào đón du khách với nụ cười thân thiện như đã quen biết du khách từ lâu. Người Maya sinh sống ở đây chủ yếu nhờ nông nghiệp, họ trồng ngô, cà phê, đánh cá và làm du lịch.
Hồ Atitlan, nằm ở độ cao 15.000 mét so với mực nước biển, đây là một trong những điểm đến tuyệt mỹ của châu Mỹ La Tinh. Bên cạnh phong cảnh nên thơ, dòng nước trong suốt như tinh thể lấp lánh, nơi đây còn nổi tiếng với những ngôi làng ven hồ đẹp nhất đất nước này.
Đến đây, du khách có thể tham gia chèo thuyền kayak, chơi dù lượn trên hồ hoặc lặn khám phá hệ động thực vật và tất cả vẻ đẹp hoang dã của hồ. Đặc biệt, những du khách ưa mạo hiểm có thể thử sức mình bằng việc trèo lên một trong ba ngọn núi lửa xung quanh hồ Atitlan.
Santiago là một thành phố nhỏ ở phía bên kia của núi lửa San Pedro. Nơi đây có một nhà thờ cổ được xây dựng thế kỷ 16, còn lưu giữ rất nhiều tác phẩm chạm khắc cổ. Trên các bức phù điêu của nhà thờ, du khách có thể thấy sự hiện diện của pháp sư, một hình thức tín ngưỡng của người Maya.
Điểm thu hút nhất trong chuyến đi đến hồ Atitlan là 12 ngôi làng mang tên 12 vị tông đồ của Chúa Jesus. San Juan là một ngôi làng nhỏ gần San Pedro, ở đây du khách có thể thư thái đi dạo và trò chuyện với người dân địa phương, gặp gỡ những nghệ nhân tài năng nổi tiếng của cộng đồng dân tộc San Juan hoặc thích thú lang thang trong khu chợ Sololá đầy màu sắc và đông đúc.
Ngôi làng San Marco thanh bình với những con phố chật hẹp nơi tập trung nhiều khách sạn và nhà hàng. Là một trung tâm thiền định, chữa bệnh với những điều kỳ lạ, nơi đây còn có loại hình du lịch thiên thể với nhiều hoạt động huyền bí bắt đầu mỗi tháng vào ngày rằm. Một điều hết sức đặc biệt là vào mỗi ngày đều có một cơn mưa rào vào đầu giờ chiều nên nước hồ lúc nào cũng đầy và trong veo...
Thị trấn tuyệt đẹp ở Quintana Roo này nằm cạnh một đầm phá xanh tuyệt đẹp, cung cấp không gian lý tưởng để bơi lội, lặn biển và lặn với ống thở. Pháo đài lịch sử của San Felipe có tầm nhìn đầy ấn tượng ra đầm phá và sẽ đưa du khách trở lại một thời đại khi hải tặc là mối đe dọa liên tục đến khu vực.
Rừng rậm bao quanh Bacalar cũng là nơi sinh sống của một số khu khảo cổ Maya hấp dẫn. Dưới đây là những điều cần biết trước khi bạn ghé thăm thị trấn.
Hồ Bacalar là một trong những điểm tuyệt vời nhất ở Riviera Maya - và có bảy lý do tại sao. Hồ dài, hẹp bao gồm không ít hơn bảy sắc thái khác nhau của màu xanh. Với đáy đá vôi trắng, nước rất trong, và là một nơi tuyệt vời để lặn biển, lặn với ống thở và bơi lội.
Bacalar được đặt tên là Pueblo Mágico hoặc Magic Town bởi Sở Du lịch Mexico ở 2006. Chỉ định này đánh dấu tầm quan trọng của thị trấn là một mốc quan trọng nằm bên ngoài mạng lưới du lịch rõ ràng của Mexico. Hiện tại có 111 Magic Towns trong nước và giấy chứng nhận thu hút các nâng cấp cơ sở hạ tầng được thiết kế để thu hút thêm khách du lịch đến Mexico.
Nhiều cửa hàng bên hồ cung cấp dịch vụ cho thuê thuyền kayak. Một số khách sạn lớn hơn trong khu vực cũng cung cấp cho khách. Chèo thuyền kayak là một cách tuyệt vời để đến gần hồ và khám phá vùng nước của nó một cách rõ ràng hơn.
Thị trấn Bacalar đã bị đột kích trong suốt thế kỷ 17, khi những tên cướp biển đi vào đầm phá thông qua một con kênh mà bây giờ được gọi là Kênh Cướp biển. Diego de Los Reyes, một tên cướp biển nổi tiếng là người gốc quê của bang Campeche, đã tàn phá thị trấn ở 1642. Mãi cho đến khi hoàn thành Pháo đài San Felipe trong 1733 thì vương miện Tây Ban Nha đã có thể bảo vệ thành công Bacalar.
Nép mình bên bờ đầm phá, Pháo đài San Felipe sở hữu một số quang cảnh ngoạn mục nhất của hồ. Ngày nay Pháo đài còn được bổ sung một bảo tàng nhỏ về hải tặc trong lịch sử, bao gồm cả việc trưng bày một bộ xương cướp biển được khai quật từ khu vực. Pháo đài và bảo tàng mở cửa hàng ngày trong tuần trừ thứ Hai.
Bacalar chỉ là một phần nhỏ trong số những tàn tích Maya đầy ấn tượng. Các địa danh cổ xưa như Kohunlich, Becan, Chicanna, Dzibanche và Chacchoben đều cách đó chưa tới 2 giờ lái xe.
Không ngạc nhiên, hải sản là cái tên phổ biến ở Bacalar. Kai Pez cung cấp một loạt các món ăn thật sự đáng nhớ trong khung cảnh dễ chịu, thoải mái. Nhà hàng và cửa hàng El Mananti là một quán ăn nổi tiếng và giá cả phải chăng khác, cung cấp các lựa chọn cho người ăn chay và người ăn chay.
Thưởng thức càng nhiều thực phẩm địa phương càng tốt, nhưng hãy tránh xa nước máy vì nó có thể khiến bạn bị ốm do ảnh hưởng của đá vôi. Tốt nhất là uống nước đóng chai, ngoài ra bạn nên kiểm tra và chắc chắn rằng món salad không được rửa dưới vòi nước và nước đá thì phải được làm từ nước tinh khiết.
Kawaguchi là một hồ nước tuyệt thuộc thị trấn Fujikawaguchi và nằm trong hệ thống ngũ hồ dưới chân núi Phú Sỹ. Đây là hồ lớn thứ hai, có độ dài lớn nhất và độ cao tuyệt đối thấp nhất, nằm ở biên giới khu Fujikawaguchiko và Minobu, miền nam Yamanashi.
Theo các nhà nghiên cứu địa chất thì hồ Kawaguchi được tạo thành trong quá trình kiến tạo của vỏ trái đất cùng với kết quả phun trào của núi Phú Sĩ. Các hồ này quần tụ thành một chuỗi chạy dài từ phía đông lên phía bắc rồi vòng sang phía tây bắc của dãy núi, trong đó hồ Kawaguchi là hồ dài nhất nằm ở phía bắc Phú Sĩ.
Năm 2013, hồ được xếp vào "Di sản văn hóa thế giới" như một phần của "Fujisan - Nguồn gốc của nghệ thuật và đối tượng của tín ngưỡng". Giữa hồ có một hòn đảo nhỏ được ví như viên kim cương của hồ, gọi là Unoshima. Cảnh sắc hồ Kawaguchi và cảnh ngắm núi Phú Sĩ có sự khác biệt rõ rệt theo mùa.
Mùa xuân có thể ngắm hoa anh đào, hoa Mitsubatsutsuji,…trong bầu không gian nhuốm sắc đỏ, hồng…
Mùa hè có hoa Lavandula (oải hương Hà Lan).
Mùa thu có rừng phong lá đỏ cùng nhiều màu sắc khác nhau.
Vào mùa đông, ở đây tổ chức "Lễ hội cây đóng băng", với những mẫu vật bằng băng được thắp đèn và những cây đóng băng với độ cao lên đến 10 mét.
Ở hồ Kawaguchi còn có hoạt động du ngoạn quanh hồ bằng thuyền, phà và ngắm núi Phú Sĩ từ hồ hay đi cáp treo dẫn lên một ngọn núi nhỏ bên cạnh hồ. Ngoài những điểm tham quan tầm ngắm núi Phú Sĩ như khu vườn Oishi, khu vực hồ Kawaguchi còn có cơ sở hạ tầng du lịch phát triển nhất với suối nước nóng, các khu bảo tàng, khách sạn ven hồ, trang trại, sân khấu trình diễn xiếc khỉ, cáp treo,..
Khu rừng âm nhạc Kawaguchiko hoạt động giống một công viên giải trí hơn là một viện bảo tàng dành cho các nhạc cụ tự động. Tại đây có khu nghỉ dưỡng với các khu vườn được thiết kế theo kiểu châu Âu có tầm nhìn phóng khoáng ra Núi Phú Sĩ.
Bảo tàng Gem Yamanashi trưng bày đá quý và tinh thể thạch anh lớn được sưu tập từ khắp Nhật Bản và trên toàn thế giới. Một nửa của bảo tàng dành cho đồ trang sức, các loại đá quý. Khu hội trường Herb là một cửa hàng vườn thảo mộc và nhà kính nơi bán các loại thảo mộc, trà và hoa khô. Đằng sau Hội trường Herb là "Hội trường Hương", nơi bán nước hoa, dầu thơm và xà phòng.
Hồ Tahoe, Sierra Nevada là một trong những thắng cảnh nổi tiếng nhất ở Mỹ. Hồ 2 triệu năm tuổi này thu hút khách du lịch quanh năm bởi các sự kiện diễn ra liên tục. Ngoài ra còn có khu nghỉ mát, trượt tuyết, con đường mòn đi bộ thơ mộng và nhiều hoạt động dưới nước cực kỳ hấp dẫn.
Hồ Tahoe là 1 hồ nước ngọt ở dãy núi Sierra Nevada của Hoa Kỳ. Hồ này nằm dọc theo biên giới giữa hai bang California và Nevada, phía tây của thành phố Carson, Nevada. Khu vực xung quanh hồ cũng được gọi là hồ Tahoe hay vắt tắt là Tahoe.
Với thảm thực vật tươi xanh làm cho khung cảnh nơi đây càng thêm thơ mộng.
Hồ nước trên núi sâu 501 mét là một trong những hồ nước sâu nhất ở Bắc Mỹ, nước trong hồ rất sạch, trong vắt, bao quanh là núi non trùng điệp, vạt rừng thông sát ven hồ và nhiều bãi cát làm cho du lịch hồ Tahoe trở thành một bãi tắm, nơi nghỉ dưỡng tuyệt vời.
Màu nước trong xanh của hồ còn ảnh hưởng bởi thảm thực vật bên dưới.
Ngày nay, khu vực hồ Tahoe đã trở thành một điểm du lịch phổ biến với hàng loạt các môn thể thao dưới nước, thu hút nhiều khách du lịch. Trong mùa hè, có nhiều sự kiện được tổ chức, bao gồm các trận thi đấu thể thao và thậm chí cả Liên hoan Shakespeare. Vào mùa đông, khách du lịch được thử các đường trượt tuyết trên những ngọn đồi và núi xung quanh hồ. Du khách cũng có thể đi bộ, đạp xe hoặc vui chơi ngay tại các sòng bài ở khuôn viên hồ Tahoe.
Hồ Melissani nằm trong hang Melissani, Kefalonia, Hy Lạp - nơi được coi là có vẻ đẹp hoàn hảo vượt thời gian và là nơi thu hút khách du lịch nhất ở Kefalonia.
Ở bên ngoài hang được bao phủ bởi rừng rậm xanh tươi đầy hoang sơ nhưng bên trong lại mở ra một thiên đường đầy tráng lệ đó là một hang đá chứa đầy nước trong xanh vô cùng huyền ảo. Chính vì vẻ đẹp này mà hồ Melissani luôn được mệnh danh là món quà đặc biệt mà tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho Kefalonia, là 1 trong số 12 địa điểm đáng ghé thăm nhất trên thế giới.
Về mặt địa chất, hồ Melissani và hang động Melissani khá giống với các hang động mà bạn có thể tìm thấy ở bán đảo Yucatán của Mexico. Thực tế, hồ Melissani là một tầng ngậm nước: nước bên trong hồ là nước biển đã bị hút vào hang, sau khi qua nhiều lớp lọc, nó trở nên trong hơn và xanh hơn cả nước trên các bãi biển của Hy Lạp. Nước sau khi chảy vào hang rồi sẽ chảy ngược trở ra bãi biển Fridi gần đó, một vòng luân hồi khiến nước trong hồ theo thời gian trở thành nước lợ chứ không còn là nước biển như thuở ban đầu.
Về mặt vật lý, bề mặt hồ Melissani nằm dưới 18m so với mặt đất bên ngoài và bên trên là những nhũ đá nổi bật rủ xuống từ hang động. Các nhà địa chất đã ước tính hang động này đã có tuổi đời khoảng 20.000 năm, cũng tương đối lâu đời so với nhiều hang động khác trên thế giới.
Đã có nhiều tài liệu cho rằng hồ Melissani được phát hiện từ năm 1051. Bên cạnh đó, hồ nước xinh đẹp này cũng đã từng được nhắc đến trong thần thoại Hy Lạp và trên thực tế, nó được gọi là hang động của các nữ thần và người ta quan niệm rằng những linh hồn của các nữ thần sông nước đã quyến rũ những người thủy thủ một đi không trở lại, chính vì những truyền thuyết này đã làm cho hồ càng trở nên huyền bí và lôi cuốn sự tò mò của du khách hơn.
Hồ Melissani - một kỳ quan thiên nhiên vượt thời gian ở Kefalonia được bao quanh bởi rừng rậm và hang động đã có từ hàng ngàn năm. Khi đến đây, du khách sẽ có cơ hội chèo thuyền trên mặt nước màu xanh lam tuyệt đẹp, bên cạnh là những bức tường màu nâu tựa mật ong vàng và không ít nhũ đá lâu năm được coi như hơi thở của hang động Melissani. Chuyến đi hứa hẹn sẽ đưa du khách đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác, sẽ khiến bạn như lạc vào một thế giới huyền thoại tách biệt với cuộc sống con người, mà khi thoát ra có lẽ bạn sẽ không thể nào quên được.
Hồ Melissani không chỉ hấp dẫn khách du lịch bởi làn nước trong xanh cùng hệ thống hang động hùng vĩ mà bên trong còn có một hòn đảo nhỏ với rừng xanh bao quanh vô cùng độc đáo. Vào ban ngày, hang Melissani có giếng trời tự nhiên và đây cũng là một trong những nơi có ánh sáng mặt trời chiếu vào trong hang. Ánh nắng mặt trời chói chang xuyên qua các khe núi, tán cây rồi chiếu thẳng xuống mặt hồ, nước hồ trong xanh pha lẫn màu vàng của nắng tạo nên một hỗn hợp màu sắc chói sáng vô cùng cuốn hút.
Hồ Lucerne là một hồ nước lớn thứ 4 tại Thụy Sỹ, đồng thời cũng là một trong những điểm tham quan nổi bật nhất của quốc gia này.
Lucerne vốn là một làng chài cổ bên hồ. Nhờ không gian trữ tình, thơ mộng thành phố này đã nhanh chóng trở thành điểm du lịch hấp dẫn, thu hút hàng triệu khách du lịch ghé thăm hàng năm.
Hồ có hình dạng phức tạp với nhiều khúc cua và góc khuỷu quanh co. Thượng nguồn hồ chảy theo hướng Bắc về thung lũng Reuss giữa các vách đã dựng đứng phía theo hướng từ Fluelen tới Brunnen. Sau đó, hồ chảy ngoặt góc cạnh về hướng Tây tới Gersauer Becken. Đây cũng là điểm sâu nhất của hồ với độ sâu 214m. Sau đó, dòng chảy của hồ nước này lại chuyển hướng phức tạp tới tận vùng Reuss và hình thành khu vực hồ Lucerne.
Tổng diện tích hồ là 114km vuông, ở độ cao 434m so với mực nước biển. Hầu hết cảnh quan xung quanh hồ là các dãy núi cao tới 1500m so với mực nước, tạo nên những khung cảnh thiên nhiên hữu tình hấp dẫn khách du lịch.
Vẻ đẹp của hồ cũng được thể hiện trong nhiều tác phẩm nghệ thuật, nổi bật nhất phải kể đến bản sonata số 14 dành cho đàn piano của Beethoven. Vào năm 1832, nhờ được nhà phê bình âm nhạc Ludwig Rellstab so sánh tiếng đàn của bản sonata 14 như ánh trăng chiếu xuống mặt hồ Lucerne xinh đẹp, bản nhạc số 14 để đời của Beethoven đã được ưu ái gọi là bản Sonata Ánh Trăng như ngày nay ta thường biết tới.
Cây cầu cầu gỗ Lucern bắc ngang qua lòng hồ Lucerne là một trong những địa điểm đẹp nhất của thành phố. Cầy cầu này được xây dựng từ năm 1330 với chiều dài lên tới 200m.
Cây cầu được coi là “hòm báu” lưu giữa những giá trị văn hóa, lịch sử của thành phố Lucerne. Ngay bên trong cây cầu bạn có thể nhìn thấy rất nhiều bức tranh khắc họa về cuộc sống sinh hoạt và những sự kiện lịch sử quan trọng của Lucerne.
Vẻ đẹp của cây cầu hòa lẫn với sắc màu rực rỡ của những bông hoa ven hồ, những tia nắng vàng chiếu xuống lòng hồ trong xanh, tạo nên một bức tranh hoàn mỹ ai cũng muốn ngắm nhìn. Hãy mang theo máy ảnh để không bỏ lỡ những phút giây ấn tượng này.
Nằm ở miền Bắc nước Italia, hồ Como giống như một bức tranh phong cảnh hoàn hảo tách biệt với phần còn lại của Italia – và đây là điều lôi cuốn bước chân du khách phương xa.
Nằm dưới chân dãy núi Alpes, hồ Como hiện lên như một bức tranh thiên nhiên cực kì ấn tượng đập vào mắt du khách ngay từ cái nhìn đầu tiên. Hồ Como được biết đến với nhiều tên khác nhau như Lagio di Como, Lario, Larius Lacus hay gọi theo tiếng Pháp là Lac de Côme. Nằm cách thành phố Milan khoảng 45 km về phía Bắc, thuộc khu vực Lombardy, trải dài qua hai tỉnh Como và Lecco, đây là một trong những hồ lớn nhất nước Italia với diện tích trải rộng 146 km2, nơi sâu nhất đến 410 m.
Nơi đây không chỉ nổi tiếng vì thiên nhiên tươi đẹp mà còn vì nền văn hóa đậm đà bản sắc và các công trình kiến trúc dọc theo bờ hồ. Chính vì vậy mà từ nhiều thế kỷ qua, các nghệ sĩ, đặc biệt là nhạc sĩ đã coi Como là nguồn cảm hứng bất tận như Liszt, Bellini, Rossini và Verdi.
Với rất nhiều thị trấn quanh co theo đường bờ hồ, du khách hoàn toàn có thể tìm điểm lý tưởng để vừa nhâm nhi bữa tối, vừa ngắm hoàng hôn buông dần xuống mặt hồ. Đặc biệt, du khách còn có thể thưởng thức món cá tươi trứ danh vừa bắt dưới hồ lên.
Với lợi thế thiên nhiên ưu đãi và địa hình đầy đủ núi và hồ, du khách có thể lựa chọn lộ trình leo núi ở khu vực Alps để chiêm ngưỡng toàn cảnh vẻ đẹp miền đất từ trên cao và tận hưởng không khí trong lành của vùng núi.
Tới hồ Como, du khách đừng quên khám phá làng Bellagio – “hòn ngọc của hồ Como”. Làng nằm trên mũi đất tận cùng của bán đảo chia phần phía Nam của hồ ra thành 2 nhánh, tạo cho hồ có hình dáng như chữ y lộn ngược. Ngôi làng này nổi tiếng khắp thế giới bởi nét cổ kính của những ngôi nhà thời trung cổ, nhiều ngỏ hẻm chật hẹp và cầu thang bằng đá. Khắp mọi nơi là những cửa hàng bé tí, quán trọ giấu mình trong nhà cổ và trên quảng trường nhỏ có tên Piazza Mazzini cạnh bờ hồ bao giờ cũng tấp nập khách du lịch. Khí hậu ở Bellagio ấm áp quanh năm nên có nhiều cây vùng nhiệt đới, cùng với những vườn hoa rực rỡ làm cho ngôi làng Bellagio giống như một ốc đảo yên bình.
Những biệt thự tuyệt đẹp quanh hồ cũng là điểm tham quan tuyệt vời dành cho du khách. Bắt đầu với Villa la Collina, du khách sẽ được chiêm ngưỡng bộ sưu tập các tượng và tranh có từ thời kỳ Lãng Mạn và thời Tân Cổ Điển. Tiếp đến, du khách hãy tham quan ngôi biệt thự Villa Carlotta do một người dân Milan giàu có cho xây năm 1747. Sau đấy bá tước Gian Battista Sommariva đã mua lại ngôi biệt thự và cho xây cải tạo. Năm 1856, công chúa Marianne của Phổ mua lại ngôi biệt thự và tặng cho con gái là Charlotte của Sachsen-Meiningen để làm quà cưới. Ở Villa Carlotta, còn có một bộ sưu tập tới hơn 800 cây cảnh mang lại vẻ thanh tịnh mê hồn. Không chỉ người xưa mới mê đắm vẻ đẹp Como, chính các diễn viên, ngôi sao nổi tiếng cũng thường xuyên ghé nơi này. Nam diễn viên điển trai George Clooney cũng có cả một biệt thự riêng bên hồ Como.
Với 90% dân số Italy theo đạo Thiên Chúa, vì vậy không có nơi nào trên đất nước này lại thiếu vắng những nhà thờ. Đặc biệt, nhà thờ ở quanh khu vực Como thường được xây dựng theo phong cách Baroque, với những bức bích họa từ thế kỷ 15.
Để ngắm hết vẻ đẹp lộng lẫy của hồ Como du khách nên đến làng Brunate để ngồi xe lửa đến điểm ngắm cảnh cao 716m. Tít ở phía dưới là tháp của ngôi nhà thờ, nhiều ngôi biệt thự màu trắng khoe vẻ đẹp ở bờ đối diện và đỉnh núi phủ tuyết của dãy núi Alps gửi lời chào từ phía xa xa.
Còn một địa điểm không thể bỏ qua khi đến Como là Thành Vezio được xây trong thế kỷ 13 trên núi, có leo lên đến đây nhìn toàn cảnh hồ Como ta mới hiểu tại sao nhà văn người Đức Hermann Hesse đã gọi hồ này là “lối vào Italia đẹp nhất”.
Quanh hồ Como, du khách còn được trải nghiệm nhiều hoạt động thú vị khác. Du khách có thể tham gia các lớp học tăng cường sức khỏe, cải thiện vóc dáng như lớp dạy nhảy zumba, pilate…
Nếu có máu phiêu lưu mạo hiểm, du khách có thể bắt một chuyến phà đi quanh hồ và dừng lại để nếm kem, cà phê espresso tại bốn ngôi làng: Bellagio, Varenna, Menaggio và Cadenabbia hay tập lái máy bay và hạ cánh trên mặt nước, một trò chơi phiêu lưu mà chỉ ở Como mới có!
Hồ Como quả thật là một trong những điểm đến lý tưởng mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho đất nước Italia. Nơi đây giống như một bức tranh phong cảnh hoàn hảo thu hút biết bao du khách tới tham quan, nghỉ dưỡng. Nếu du khách có cơ hội du lịch Italia thì hãy ghé qua hồ Como để khám phá vẻ đẹp hấp dẫn của “lối vào đẹp nhất Italia” nhé!
Nhắc đến du lịch Châu Phi, cái tên được nhắc đến nhiều nhát vẫn là Tanzania. Là đất nước nằm ở Đông Phi, Tanzania sở hữu 3 ngọn núi lửa cao hùng vĩ, những cao nguyên màu mỡ cùng các khu rừng và hệ động vật hoang dã vô cùng phong phú. Không chỉ có cảnh quan thiên nhiên độc đáo, đẹp mắt, Tanzania còn nổi tiếng với chiếc hồ tử thần Natron khiến mọi loài động vật khiếp sợ.
Natron không khác gì một chiếc hồ tử thần trên trái đất khi các sinh vật đặt chân đến đây đều bị hóa đá một cách vô cùng bí ẩn. Nguyên nhân của hiện tượng hiếm thấy này là do nồng độ kiềm trong hồ quá cao đến mức khiến cho những loài động vật không may bị sảy chân rơi xuống hồ bị phân hủy và vôi hóa. Khi mực nước hồ hạ thấp xuống, xác của những loài động vật không may trôi dạt vào bờ, trên mình phủ một lớp muối dày. Hồ Natron có mặt hồ rộng lớn và sáng như tấm gương, vì vậy không khó để hình dung vì sao những con vật kém may mắn này trượt chân sa mình xuống hồ.
Nguồn gốc của hiện tượng hồ Natron chứa nồng độ kiềm cao quá mức là do ngọn núi lửa một triệu năm tuổi Ol Doinyo Lengai ở phía Nam hồ Natron. Dung nham từ ngọn núi lửa hùng vĩ này chảy xuống mang theo một lượng muối khoáng đặc biệt khác với loại muối có trong nước biển thông thường. Từ đó, lượng muối khoáng này tồn đọng trong hồ, tích tụ theo năm tháng khiến cho chiếc hồ ngày càng trở nên kiềm hơn.
Xác của những con vật bị rơi xuống hồ được bảo quản rất tốt đến nỗi hình dáng sống động của chúng vẫn còn được giữ nguyên, bọc trong những lớp xi măng bằng muối dày đặc. Tất cả các sinh vật sống một khi đã chìm trong hồ sẽ bị phân hủy trong thời gian rất ngắn, chính vì vậy mà xác của chúng vẫn giữ nguyên hình dáng như khi còn sống. Những “bức tượng đá vôi” này được bảo quản hoàn hảo đến từng chi tiết, nếu như bạn vạch mỏ một con dơi sau khi rơi xuống hồ Natron nhiều tháng bạn vẫn có thể nhìn thấy chiếc lưỡi nhỏ của con dơi vẫn còn nguyên vẹn và từng cọng lông vẫn còn nhìn thấy rõ trên thân thể.
Chính vì những đặc điểm lý thú đó mà ngày càng có nhiều nhiếp ảnh gia đến tham quan hồ Natron với mục đích dựng lại xác ướp các con vật xấu số và ghi lại những bức ảnh sống động tựa như khi chúng còn sống.
Mặc dù được mệnh danh là chiếc hồ tử thần khiến mọi sinh vật sống hóa đá khi rơi xuống như hồ Natron vẫn có một số rất ít loài sinh vật may mắn tồn tại được ở môi trường khắc nghiệt này. Hiện nay, có 3 loài sinh vật sinh sống ở hồ Natron đó là vài loại tảo, vi khuẩn đặc hữu và chim hồng hạc. Không những sinh sống tốt trên chiếc hồ nhuốm đỏ mà đây còn là nơi lý tưởng cho chim hồng hạc làm tổ trong mùa sinh sản. Chính vì lý do đó, mỗi năm vào mùa sinh sản, hồ Natron là nơi tập trung của hơn 2,5 triệu con hồng hạc.
Mặc dù sinh sống được ở một môi trường khắc nghiệt như hồ Natron nhưng loài hạc này cũng đang rơi vào tình trạng bị đe dọa bởi chúng không có một môi trường lý tưởng nào khác để sinh sản ngoại trừ chiếc hồ tử thần. Môi trường kiềm của hồ Natron là một cái bẫy tuyệt vời để hồng hạc có thể chống lại những kẻ thù cố gắng tiếp cận tổ của chúng. Không gian chết chóc của hồ Natron mang lại sự yên bình cho chim hồng hạc sinh sản.
Khi mực nước sâu vừa đủ thì loài chim hồng hạc sẽ đậu trên các mỏm muối và làm tổ bằng bùn của núi lửa. Tuy nhiên, cũng có số ít những con hồng hạc kém may mắn bị rơi xuống hồ và trở thành một xác ướp trong lớp xi măng bằng muối như những loài động vật khác.
Ngoài hiện tượng phân hủy động vật một cách nhanh chóng, biến chúng thành những xác ướp nguyên vẹn thì hồ Natron còn nổi tiếng với một màu đỏ chết chóc. Màu đỏ này tươi tựa như máu được tạo ra bởi các loài vi khuẩn đặc biệt chỉ có ở nơi đây. Chính vì vậy, hồ Natron cũng là một thiên đường sáng tạo, khơi nguồn cảm hứng cho các nhà họa sĩ, nhiếp ảnh gia và những người làm trong lĩnh vực nghệ thuật.
Hồ Natron cũng là một nơi khá khắc nghiệt với con người. Nhiệt độ ở đây khá cao, nồng độ muối lớn nên bầu không khí càng khô và nóng hơn khiến người đến đây nhanh chóng bị mất nước và rơi vào tình trạng mệt mỏi. Chính vì vậy mà du khách muốn đến hồ Natron tham quan cần chuẩn bị đồ bảo hộ thật kỹ lưỡng và nên đi theo sự hướng dẫn của những người chuyên nghiệp.
Mặc dù là một nơi nguy hiểm cho cả sinh vật sống và con người, nhưng hồ Natron vẫn đang là một địa danh độc đáo trên thế giới thu hút nhiều du khách đến tham quan và khám phá, đặc biệt là giới nghệ thuật và nhiếp ảnh gia. Nếu bạn cũng muốn một lần chiêm ngưỡng tận mắt chiếc hồ tử thần của trái đất thì hãy đến với Tanzania để được khám phá.
Cảnh đẹp Tây Hồ Hàng Châu được mệnh danh là hiện thân vẻ đẹp của Tây Thi – một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc. Đây là một trong những hồ nước tự nhiên sở hữu vẻ đẹp như tiên cảnh, trở thành bộ mặt của phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Nơi này hằng năm thu hút một lượng lớn khách du lịch khắp nơi đến du ngoạn.
Tây Hồ Hàng Châu được bình bầu là một trong 5 hồ đẹp nhất Trung Quốc trên các tiêu chí về thiên nhiên, vẻ đẹp, sạch, sự đa dạng các loài và tính độc đáo về văn hóa. Cảnh quan văn hóa Tây Hồ đã được UNESCO đưa vào danh sách di sản văn hóa thế giới năm 2011
Ở Trung Quốc, người dân thường đặt tên các hồ nước theo phương hướng, chính vì thế ở đây có hơn 30 hồ nước được Hồ Tây (hồ phía Tây) ở khắp các thành phố. Nhưng vẻ đẹp Tây Hồ Hàng Châu mới thực sự là một tuyệt tác thiên nhiên với ba mặt là núi, nằm sát với khu phố thị cổ kính phía tây phố Hàng Châu, Chiết Giang.
Tây Hồ Hàng Châu là một hồ nước ngọt có chiều dài lớn nhất, với chiều dài từ Bắc đến Nam là 3,3km và từ hướng Đông sang Tây là 2,8km. Tổng diện tích của hồ khoảng 6,3km vuông, trong đó diện tích chứa nước khoảng 5,66km vuông. Với việc sở hữu khung cảnh thơ mộng thì nơi này đã trở địa điểm tham quan thu hút du khách trong và ngoài nước.
Khi đến đây, bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp Tây Hồ Hàng Châu suốt 4 mùa với khung cảnh nên thơ đã từng là nguồn cảm hứng cho các thi sĩ nhà văn Trung Quốc. Nhà thơ Tô Đông Pha đã từng nói “Hàng Châu có Tây Hồ cũng giống như khuôn mặt. Hàng Châu không có Tây Hồ cũng như người ta mất đi khuôn mặt”. Bởi vậy nếu đã đến Hàng Châu mà không ghé Tây Hồ thì xem như chưa được chiêm ngưỡng nét đẹp thật sự của Hàng Châu.
Khu hồ này được chia ra làm 3 phần bởi 3 con đê là đê Tô, đê Bạch, đê Dương Công. Khi tham quan Tây Hồ bạn sẽ thấy được toàn bộ hồ được chia làm 5 hồ nhỏ gồm Ngoại Tây Hồ, Hậu Tây Hồ, Lý Tây Hồ, Nhạc Hồ và Tiểu Nam Hồ. Trong khuôn viên của hồ còn có một ngọn núi nhỏ có tên là Cô Sơn có diện tích 200.000 mét vuông và 3 đảo Tiểu Doanh Châu, Nguyễn Công Đôn và Hồ Tâm Đình.
Vẻ đẹp Tây Hồ Hàng Châu được cô đọng qua Tây Hồ Thập Cảnh tức là 10 cảnh đẹp của Tây Hồ. Mỗi phong cảnh này đều được đánh dấu bằng một bia đá với tên gọi được chính vua Càn Long nhà Thanh viết thư pháp gồm: Liễu lãng văn oanh, Tô đê xuân hiểu, Hoa cảng quan ngư, Nam Bình vãn chung, Lôi Phong tịch chiếu, Bình hồ thu nguyệt, Khúc viện phong hà, Song phong sáp vân, Đọan kiều tàn tuyết và Tam đàm ấn nguyệt.
Ngoài 10 cảnh đẹp Hồ Tây du khách còn có thể tham quan Tây Hồ Hàng Châu với những tiểu cảnh, cụm phong cảnh khác cũng góp phần tạo nên vẻ đẹp tuyệt mỹ cho quang cảnh nơi này như là chùa Linh Ấn linh thiêng nổi tiếng với những công tình xây trên đồi núi cao, trang trại chè Long Tỉnh, khu mộ và miếu thờ Nhạc Phi – Nhạc Miếu Vương.
Du khách đi du lịch Trung Quốc, có dịp đến với Hàng Châu mộng mơ thì bạn nhất định phải ghé qua chiêm ngưỡng vẻ đẹp Tây Hồ Hàng Châu, nhìn ngắm cảnh đẹp tuyệt sắc như tiên cảnh. Hòa mình vào không gian yên tĩnh lãng mạn sẽ là một kỉ niệm vô cùng đáng nhớ trong chuyến hành trình của bạn.
Hồ Minnewanka là hồ nước lớn nhất ở Công viên Quốc gia Banff. Nơi đây là địa điểm giải trí nổi tiếng để tận hưởng các hoạt động thú vị như câu cá, chèo thuyền, đi bộ đường dài, lặn bằng bình khí và cắm trại. Bãi đỗ xe ô tô và khu vực cắm trại nằm trên hồ chỉ cách thị trấn Banff 5 km về phía đông bắc.
Hồ Minnewanka có nghĩa là “Hồ của Những linh hồn" theo tiếng bản địa Stoney. Người bản địa sống quanh hồ tin rằng các linh hồn đã nương náu ở nơi đây. Những người châu Âu thời xa xưa gọi nơi đây là "Hồ Quỷ dữ".
Vào cuối thế kỷ 19, một thị trấn mùa hè nhỏ xinh được xây dựng trên mép nước, với các khách sạn, bến thuyền và nhà hàng nhộn nhịp khách ghé thăm. Năm 1941, con đập được xây dựng ở đây đã nâng mực nước hồ lên 30 mét và nhấn chìm thị trấn. Ngày nay, thị trấn dưới nước rất hấp dẫn những người lặn bằng ống thở.
Hồ sâu 142 mét và dài 28 km. Một số công ty tổ chức các chuyến tham quan bằng thuyền trên hồ. Hãy du ngoạn trên mặt nước để chụp ảnh khung cảnh núi non thơ mộng xung quanh. Đặt chuyến du ngoạn trong ngày ở bãi đỗ xe chính. Du khách cũng có thể đặt chuyến tham quan câu cá ở đây. Dành một ngày câu cá trên hồ để bắt cho được những chú cá hồi.
Nhiều đường mòn đi bộ dẫn quanh hồ, từ những quãng dạo bộ ngắn cho tới cung đường đi bộ kéo dài cả ngày. Thuê xe đạp ở Banff và đạp xe vòng quanh toàn bộ quãng đường dài 25 km. Hãy để mắt đến những động vật hoang dã và đừng quên chụp ảnh.
Trong khu vực, hươu, gấu, cừu núi lang thang kiếm ăn còn đại bàng sải cánh trên bầu trời. Hãy nhớ tránh xa những chú gấu và không nên đi bộ khám phá một mình.
Mùa đông là thời điểm ghé thăm phổ biến nhất. Các cơ sở như bãi đỗ xe và điểm cắm trại có mái che nhanh chóng kín chỗ nên hãy đến thật sớm.
Hồ đóng băng vào mùa đông. Nhiều cơ sở đóng cửa nhưng đây lại là thời điểm dễ thấy động vật hoang dã bởi xung quanh không có nhiều người.
Saimaa (phát âm tiếng Phần Lan: [sɑimɑː]; tiếng Thụy Điển: Saimen) là một hồ ở đông nam Phần Lan. Với diện tích khoảng 4.400 kilômét vuông (1.700 dặm vuông Anh), đây là hồ lớn nhất ở Phần Lan, và là hồ lớn thứ tư ở châu Âu. Nó được hình thành bởi việc tan băng ở cuối Kỷ băng hà.
Các thành phố chính nằm trên bờ hồ là Lappeenranta, Imatra, Savonlinna, Mikkeli, Varkaus, và Joensuu. Sông Vuoksi River chảy từ hồ Saimaa vào hồ Ladoga. Có các đảo nằm rải rác trên phần lớn diện tích hồ, và các kênh hẹp chịa hồ thành nhiều phần, mỗi phần đều có tên riêng (các lưu vực chính gồm Suur-Saimaa, Orivesi, Puruvesi, Haukivesi, Yövesi, Pihlajavesi, và Pyhäselkä).
Ở những nơi trong lưu vực Saimaa (một diện tích lớn hơn so với hồ), "đường bờ hồ trên một đơn vị diện tích ở đây nhiều hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới, tổng chiều dài gần 15.000 km. Số các đảo trong khu vực, 14.000, cũng cho thấy hệ thống này là một nơi rắc rối nhiều chi tiết".
Kênh Saimaa từ Lappeenranta tới Vyborg nối hồ Saimaa vào Vịnh Phần Lan. Các kênh khác nối hồ Saimaa với các hồ nhỏ hơn ở miền Đông Phần Lan, tạo thành một mạng đường thủy. Các đường thủy này được dùng chủ yếu để vận chuyển gỗ, khoáng sản, kim loại, bột giấy cùng các hàng hóa khác, nhưng cũng được dùng làm tuyến đường thủy du lịch.
Một trong những hải cẩu vùng nước ngọt quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng là hải cẩu vòng Saimaa, chỉ sống ở hồ Saimaa. Cũng vậy, cá hồi Saimaa là một loài có nguy cơ tuyệt chủng cũng sống ở đây.
Vùng bờ hồ rất có thể là nơi nguyên thủy sản xuất loại đồ gốm-amiăng, một loại đồ gốm được sản xuất bằng amiăng và đất sét từ khoảng năm 1900 trước Công nguyên tới năm 200 sau Công nguyên, bởi vì đây là nơi duy nhất có các mỏ amiăng thiên nhiên phong phú dễ tiếp cận để dùng làm đồ gốm nói trên.
Hồ nước ngọt khổng lồ ở Malawi được ví như máu của người dân nước này, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Tới đây, du khách có thể thỏa sức vẫy vùng trong làn nước trong xanh của hồ.
Đôi khi một số hồ lại rộng lớn và ấn tượng hơn cả những bãi biển và đại dương bởi vẻ đẹp độc đáo của nó. Hồ nước Malawi có vẻ đẹp của thiên nhiên tươi đẹp kỳ thú, chính vì vậy nó còn là nơi để nghỉ ngơi và giải trí.
Vẻ đẹp của hồ Malawi đươc cư dân địa phương gọi là "hồ của các ngôi sao", bởi vào ban đêm đèn dầu hỏa thắp sáng toàn bộ bề mặt nước và tạo nên một khung cảnh lãng mạn tuyệt vời.
Hồ Malawi ở châu Phi. Nằm ở độ cao 500 mét và chiếm diện tích 29.600 sq km, là hồ lớn thứ ba ở châu Phi và thứ chín trên thế giới.
Từ hồ Malawi đến mạn sông Shire là nhánh của sông Zambezi. Nó được phân loại là di sản thế giới được UNESCO công nhận. Malawi Lake là nơi sinh sống của hầu hết các loài cá trên thế giới. Do độ sâu, độ trong của nước, vì vậy, hồ nước trong veo và là một thách thức thật sự cho các thợ lặn.
Bạn có thể tham gia vào tour du lịch sinh thái, tới thăm các khu vực bảo tồn rộng lớn. Đạp xe leo núi, cưỡi ngựa... cũng là một trong những dịch vụ được yêu thích khi tới đây.
Malawi được đánh giá là một nơi cả hòa bình và yên tĩnh. Nơi đây hiếm khi nào xảy ra tình trạng ùn tắc giao thông hay các vấn nạn phức tạp đô thị. Phần lớn dân số nước này sống ở nông thôn. Dân số đô thị chỉ chiếm 15,7%. Người dân không quen với lối sống xô bồ. Đặt chân tới xứ sở này, du khách sẽ có cơ hội được trở lại với cuộc sống yên bình của những thời quá khứ xa xưa.
Jökulsárlón là các đầm phá, hồ sông băng lớn nhất ở Iceland. Nằm ở phía đông nam Iceland, ở đầu của nhánh sông băng Breiðamerkurjökull từ Vatnajökull, giữa vườn quốc gia Skaftafell và Höfn, nó phát triển thành vùng đầm phá sau khi các sông băng đã bắt đầu rút xuống từ rìa của Đại Tây Dương. Hồ này đã phát triển kể từ đó ở mức độ khác nhau do sự tan chảy của các sông băng Iceland.
Đầm phá sông băng Jokulsarlon ở Iceland chính là một phần của dòng sông băng Breidamerkurjokull. Khi những người dân Iceland đầu tiên đặt chân tới đây từ năm 900, đầm phá sông băng Jokulsarlon hoàn toàn không tồn tại mà chỉ có dòng sông băng Breidamerkurjokull dài khoảng 20km chảy về phía Bắc và đổ ra biển.
Diện tích nơi này ngày một được mở rộng thêm bắt đầu từ năm 1970 khi những tảng băng tiếp tục tan chảy. Ngày nay, chiều dài của đầm phá sông băng Jokulsarlon đã lên đến 1.500m với diện tích khoảng 18km2 khiến nơi đây trở thành dòng sông băng sâu nhất Iceland với độ sâu gần 250m.
Theo các nhà khoa học quốc tế, khi nhiệt độ vùng tăng dần trong khoảng những năm 1920–1965, dòng sông băng Breidamerkurjokull bắt đầu tan chảy ở những vị trí khác nhau tạo ra những tảng băng trôi với nhiều hình dạng, kích thước và hình thành nên khu đầm phá sông băng Jokulsarlon như ngày nay.
Tuy nhiên, băng ở đầm phá Jokulsarlon gần như nằm “bất động” trong mùa đông, không dịch chuyển, cũng không tan chảy. Đến mùa hè, khi nhiệt độ tăng lên, những tảng băng ở đây mới dần tan và xuôi dòng đổ ra biển.
Ngày nay, Jokulsarlon là địa chỉ du lịch có tiếng, thu hút khá đông khách du lịch khi đến Iceland. Khu vực này nằm cạnh đường quốc lộ của Iceland, rất thuận lợi cho bạn tham quan.
Những tảng băng xanh nổi bồng bềnh trên mặt nước chính là vẻ đẹp thu hút khách du lịch đến với đầm phá sông băng Jokulsarlon ở Iceland.
Powell được biết đến là hồ nước nhân tạo lớn thứ hai của Hoa Kỳ, chỉ đứng sau hồ Mead, nằm trên con sông Colorado, và là đường ranh giới ngăn cách giữa hai tiểu bang Utah và Arizona. Tổng diện tích của hồ Powell khoảng hơn 65,000 ha, trong đó phần lớn diện tích nằm ở bên phía Utah. Hồ có chiều dài 299 km, rộng 40km với độ sâu trung bình 40 mét, trong đó vị trí sâu nhất lên đến 170 mét.
Trong giai đoạn từ năm 1940 đến 1950, chính phủ Hoa Kỳ đã có kế hoạch xây dựng một con đập lớn trên sông Colorado. Và đập Glen Canyon đã được hoàn thành vào năm 9163. Sau khi đưa vào hoạt động, con đập này khiến cho sông Colorado bắt đầu chảy ngược trở lại, không bị chuyển hướng sang các hẻm núi nữa và đã hình thành nên hồ Powell như ngày nay. Tuy nhiên, phải mất đến 17 năm thì lượng nước trong hồ mới được lấp đầy.
Mỗi năm, địa điểm hồ Powell thu hút khoảng hơn 2 triệu lượt khách, không chỉ của Mỹ mà còn đến từ nhiều quốc gia khác trên thế giới. Hồ Powell mặc dù chỉ mới được hình thành cách đây không lâu nhưng những hẻm núi xung quanh nó thì lại có từ cách đây rất lâu rồi. Trải qua hàng triệu năm bị bào mòn và chia cắt bởi sông Colorado, những hẻm đá này tạo thành một cảnh quan kỳ vĩ, mang tới cho nơi đây một vẻ đẹp cuốn hút đến lạ thường.
Du lịch hồ Powell, bạn sẽ được khám phá một trong những thắng cảnh thiên nhiên đẹp nhất miền Tây Nam Mỹ. Nơi đây được xem là một điểm đến thiên đường dành cho những ai thích trekking, đi bộ đường dài, chèo thuyền hay cắm trại.
Một trong những trải nghiệm bạn không thể bỏ qua khi du lịch hồ Powell đó là đi thuyền khám phá Antelop Canyon. Đây là một hẻm túi với vẻ đẹp tuyệt mỹ, đã mê hoặc không biết bao nhiêu nhiếp ảnh gia cũng như khách du lịch. Để tham quan hẻm núi này, bạn sẽ được ngồi trên một chiếc thuyền cùng với khoảng 20 người khác.
Hẻm núi Antelope Canyon có chiều dài chỉ khoảng hơn 200 mét, tương đối ngắn so với nhiều hẻm núi khác nhưng vẻ đẹp của nó thì lại khiến bạn phải ngẩn ngơ và thích thú đấy. Màu sắc của lớp đá sa thạch khi bị ánh sáng mặt trời chiếu vào tạo nên một sức quyến rũ đến lạ thường. Thời điểm đẹp nhất để đến Antelop Canyon là vào buổi bình minh hoặc hoàng hôn.
Cầu Rainbow đã có từ trước khi hồ Powell được hình thành và được xem là cây cầu tự nhiên cao nhất thế giới hiện nay. Tạo hóa quả thật tài tình khi đã chạm khắc nên một cây cầu độc đáo từ khối đá sa thạch đỏ khổng lồ.
Trước đây, cầu Rainbow được xem là một trong những kỳ quan thiên nhiên xa xôi và khó tiếp cận nhất của Hoa Kỳ. Tuy nhiên sau khi hồ Powell hình thành, việc di chuyển tới đây đã trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Du lịch hồ Powell mà không ghé tham quan đập Glen Canyon thì quả là vô cùng đáng tiếc. Đây hiện đang là một trong những con đập lớn nhất của Hoa Kỳ. Mỗi tour tham quan đập sẽ kéo dài trong khoảng 45 phút và mỗi lượt tham quan chỉ cho phép tối đa 20 người.
Hồ Powell có thể nói là một thiên đường dành cho các tín đồ yêu thích bộ môn chèo thuyền kayak. Ngồi trên thuyền, tự chèo lái nó băng qua những hẻm núi kỳ vĩ, đắm chìm trong bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ chắc chắn sẽ là một trải nghiệm vô cùng thú vị.
Mùa hè là thời điểm hồ Powell thu hút đông du khách nhất. Nếu bạn không thích đám đông thì có thể tới đây vào mùa xuân hoặc mùa thu. Hồ Powell luôn nằm trong danh sách những điểm đến không nên bỏ qua nhờ khung cảnh thiên nhiên ấn tượng và những trải nghiệm thú vị mà chỉ tới đây bạn mới có được.
Hồ Pehoé là hồ nước nằm trong công viên quốc gia Torres del Paine, thuộc vùng Magallanes, miền Nam Chile.
Lago Pehoe nằm ở trung tâm của Vườn Quốc gia Torres del Paine và từ đó bạn có tầm nhìn tuyệt vời ra núi Paine Grande và Cuernos del Paine. Pehoe là một từ tehuelche có nghĩa là 'ẩn' và được phát âm là "pay-oh-way".
Công viên quốc gia Torres del Paine rất rộng lớn nằm ở phía nam Chile, nơi đây có đủ không gian để bao quát nhiều vùng khí hậu và địa hình, từ những ngọn núi đá granit phủ đầy tuyết và sông băng lấp lánh đến những đồng cỏ, đầm lầy và những hồ nước màu xanh da trời. Toàn cảnh đẹp nhất của nó là dãy Torres bên dưới thác nước Salto Chico trên hồ Pehoé.
Trên bờ biển phía tây bắc của nó là Refugio Paine Grande, một trong những điểm quan trọng để dành một đêm ở W Trek. Ngắm mặt trời lặn trên Lago Pehoe từ Camping hoặc Refugio Paine Grande là một kết thúc yên bình và thú vị cho một ngày đi bộ đường dài dọc theo Hồ Grey hoặc lên Thung lũng Pháp.
Hầu hết du khách lần đầu tiên nhìn thấy hồ khi đi bộ đường dài trên W Trek. Tuy nhiên, quang cảnh từ các bờ biển phía Tây của nó thật tuyệt vời và 4 đến 5 giờ đi bộ (hoặc đi xe ngựa) từ trung tâm hành chính của Vườn Quốc gia là một tuyến đường tương đối bằng phẳng và ít người đi bộ hơn.
Hồ lớn, rộng hơn 10km, từ Paine Grande Lodge đi qua phà mất khoảng một giờ đồng hồ về phía Đông Bắc.
Là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất của Croatia, Công viên quốc gia hồ Plitvice được tạo thành từ mười sáu hồ được kết nối bởi một loạt các thác nước và được bao quanh bởi những khu rừng hoàn hảo như tranh vẽ.
Nằm nép mình ở vùng núi Lika, nằm giữa bờ biển và thủ đô Zagreb, Plitvice, cùng với Dubrovnik, địa điểm này được ghé thăm nhiều nhất ở Croatia. Các hồ nước trở thành một công viên quốc gia được bảo vệ và nơi này cũng được liệt kê là Di sản Thế giới của UNESCO.
Công viên quốc gia là một quần thể gồm 16 hồ có vẻ đẹp trác tuyệt liên kết với nhau bởi một loạt các thác nước, nằm bên trong rừng sâu đồng thời là nơi trú ngụ của các động vật hoang dã như hươu, nai, gấu, sói, lợn và các loài chim quý hiếm khác. Bước vào đây như một bước đặt chân đến với vườn địa đàng thật sự, đây là khi mà vẻ đẹp là sự kết hợp tuyệt vời của thiên nhiên ngoài tầm tay của con người có thể tạo ra được.
Các du khách kể lại rằng họ rất thích việc đi bộ dưới công viên trong bầu không khí trong lành. Cùng với việc chiêm ngưỡng những hồ nước, thác nước và động vật hoang dã, đã khiến các du khách như lạc bước đến với những điều diệu kỳ. Có hai lối đi để vào đây nhưng dù là ở lối nào, quý khách cũng cảm nhận được vẻ đẹp ở đây từ những góc nhìn khác nhau.
Từ lối 1 vào trong, đi xuống con đường quanh co rải sỏi để đến lối đi bằng gỗ, lối này băng qua các hồ. Đứng trên cầu gỗ hướng ra hồ, du khách sẽ có cảm giác như nước trong hồ trải dài ra hàng dặm. Trên con đường đó, quý khách cũng sẽ nhìn thấy thác nước lớn nhất, thác Veliki Slap ở phía bên phải. Hoặc bằng cách đi bộ xuống lối đi gỗ, quý khách sẽ bắt được những góc chụp thác nước đẹp nhất. Có một khu vực nhỏ ở đó để quý khách đứng bên dưới thác Veliki Slap chụp những tấm ảnh lưu niệm.
Ngoài ra, các lối đi trên cầu gỗ sẽ đưa du khách thưởng ngoạn cảnh đẹp tuyệt vời hai bên hồ. Động Supljara cũng nằm trên lối vào 1, đây là nơi trưng bày các loại động vật lạ, thu hút khá nhiều du khách. Men theo các hang động, đi bộ lên phía trên là một cách thú vị để ngắm nhìn cảnh đẹp độc đáo của các hồ.
Từ lối vào 2, du khách có thể chọn một trong các phương án khác nhau để bắt đầu cuộc hành trình khám phá của mình. Nếu đi thuyền bạn sẽ tận mắt nhìn thấy những đàn cá bơi lội từng đàn trong dòng nước trong veo xuống tận đáy. Còn nếu đi bằng tàu điện sẽ trầm trồ trước các loài thực vật đa dạng ở khu rừng châu Âu.
Những cảnh đẹp này thu hút cả những con người khó tính nhất, kể cả khi họ không quan tâm đến thiên nhiên thường ngày thì cũng phải giật mình trước vẻ đẹp của mẹ thiên nhiên ban tặng nơi đây.
Các hang động được hình thành bởi đá vôi từ Kỷ Trias, Kỷ Jura và Kỷ Phấn trắng và quá trình địa chất này vẫn còn đang diễn ra cho đến tận ngày nay. Tính chất tự nhiên tại khu vực đã tạo ra những tầng sinh thái khác nhau, đa dạng nhưng đẹp say đắm lòng người.
Mặc dù Plitvice nổi tiếng là nơi trú ngụ của các loài động vật nhưng quý khách cũng có thể bắt gặp khá nhiều cá. Việc thấy chúng di chuyển theo đàn dưới hồ được xem là một hoạt động đầy thú vị.
Du khách có thể ngắm những đàn cá đang bơi lội trong làn nước trong xanh của hồ Plitvice
Công viên quốc gia hồ Plitvice may mắn sở hữu vẻ đẹp từ mẹ thiên nhiên, với những hồ nước trong xanh cùng bọt sóng bốc hơi tạo nên vẻ đẹp vô cùng kỳ vĩ. Các du khách đến đây như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh ngắm nhìn những điều diệu kỳ từ thiên nhiên khó lòng mà quên được. Nếu đến Croatia thì điểm đến Plitvice là một lựa chọn đầy may mắn với du khách.
Rakotzsee là một hồ nhân tạo được xây dựng trong thời gian từ giữa những năm 1842 và 1875 ở Azalea và Rhododendron. Vườn Kromlau và tọa lạc tại quận Kromlau trong khu đô thị của Gablenz ở Görlitz .
Nó dài khoảng 300m và rộng khoảng 35 đến 50m. Ở giữa, hồ được bắc bởi cây cầu Rakotz dài 35m. Giữa hồ còn có một nhóm bia đá bazan. Quần thể được coi là mẫu mực của kiến trúc sân vườn lãng mạn.
Vì hồ không có dòng chảy tự nhiên nên mực nước của nó được duy trì bằng máy bơm. Hiện đang có kế hoạch cung cấp nước cho nó từ nguồn nước tự nhiên.
Cây cầu Devil được xây dựng vào năm 1860, tức là nó đã có tuổi đời khoảng 150 năm. Phần thú vị nhất ở đây là câu chuyện đằng sau việc cây cầu đó được hiệp sĩ Friedrich xây dựng với sự giúp đỡ của chính Satan. Thiết kế khá độc đáo mặc dù cũng có những cây cầu của Quỷ khác ở Châu Âu.
Toàn bộ cây cầu là nhân tạo, bao gồm cả những chóp đá lởm chởm ở hai đầu cầu và những tảng đá nhọn nhô ra trong hồ. Mặc dù Satan không đóng vai trò gì trong việc xây dựng cây cầu này, nhưng nó vẫn được đặt tên là Cầu Quỷ vì mái vòm tinh xảo của nó. Nó phi thường đến nỗi người ta tin rằng chỉ có Satan mới đủ khả năng xây dựng nó.
Thời điểm tốt nhất để ghé thăm là vào mùa thu khi những tán lá tạo thêm một không gian tuyệt vời cho khung cảnh vốn đã siêu thực. Cây cầu này nằm ở Công viên Kromlauer ở miền Đông nước Đức và cách tốt nhất để đi đến đó là bằng xe hơi. Trong khi khách du lịch luôn được chào đón tham quan nơi này nhưng việc đi qua cầu đã bị nghiêm cấm.
Năm 2017, Rakotzsee và cây cầu được dùng làm bối cảnh cho bộ phim Người học việc của phù thủy . Rakotzbrücke, có dạng một vòng tròn nhờ sự phản chiếu của mặt nước, đóng vai trò như một cửa ngõ dẫn đến thế giới song song.
Copyright © 2018. Designed by Nvton. All rights reseved