Trà Hoa Thảo Mộc



Táo đỏ Tân Cương




Trà Hoa Hồng



Cẩm nang sức khỏe gia đình

Các bệnh xương khớp

Thoái hoá khớp

Thoái hoá khớp là một loại viêm khớp, hủy hoại chất sụn ở khớp. Đây là bệnh thường gặp trong số các vấn đề về khớp. Ở Mỹ, có đến 100 triệu người mắc bệnh này. Trước 45 tuổi, thoái hoá khớp thường xảy ra ở đàn ông; sau 55 tuổi, nó hay gặp ở đàn bà. Vị trí thoái hoá thường gặp là hai bàn tay, bàn chân, xương sống và các khớp lớn chịu sức nặng như háng, đầu gối.

Bệnh thoái hoá khớp nguyên phát có liện hệ với tuổi già. Tuổi càng lớn, nước trong sụn gia tăng, chất protein sụn bị thoái hoá. Các khớp được dùng quá nhiều năm dễ bị viêm sụn, đau khớp, sưng; nếu tiến triển quá lâu còn làm mất hẳn lớp đệm sụn khớp. Viêm khớp kích thích phát sinh tăng trưởng xương mới, tạo thành các gai quanh khớp. Thoái hoá khớp thứ phát xảy ra sau béo phì, chấn thương nhiều lần hay phẫu thuật khớp, bệnh bẩm sinh về khớp, gút, tiểu đường và một số rối loạn hoóc môn. Thoái hoá khớp chỉ là bệnh về khớp, không ảnh hưởng gì đến các cơ quan khác.

Bệnh thường gây đau đớn nơi khớp, nhiều hơn vào lúc chiều tối. Khớp có thể sưng, ấm, khi vận động có tiếng kêu ở khớp. Đau và cứng khớp hay xảy ra khi ngồi bất động lâu. Triệu chứng thay đổi tùy người: có người thấy quá đau, phải đi khập khiễng, khó làm việc được; ở người khác lại có rất ít triệu chứng dù có nhiều hình ảnh thương tổn trên X-quang. Triệu chứng bệnh này có thể không liên tục, nhiều người bị ở khớp gối, tay có thể nhiều năm không đau gì. Do khớp gối bị thoái hoá, bệnh nhân đi khập khiễng, ngày càng tệ hơn khi bệnh tiến triển. Thoái hoá khớp ở xương sống gây ra đau cổ hay đau lưng. Thoái hoá khớp có thể tạo xương cứng quanh các khớp nhỏ ở bàn tay, gọi là cục Heberden, có thể không đau (nhưng giúp chẩn đoán ra bệnh này).

Không có xét nghiệm máu nào dùng chẩn đoán bệnh này. Thử máu dùng để loại trừ bệnh khác gây ra thoái hoá khớp thứ phát hay một số bệnh viêm khớp khác. X-quang các khớp giúp nhiều trong chẩn đoán. Thường thấy nhất là mất sụn khớp khiến hẹp khe khớp và thành lập các gai. Chọc khớp đôi khi giúp chẩn đoán phân tích dịch khớp, loại trừ bệnh gút, nhiễm trùng và các nguyên nhân khác.

Về điều trị, ngoài giảm cân, tránh mọi hoạt động thái quá ảnh hưởng đến khớp, không có cách nào ngăn chặn được sự thoái hoá sụn hay sửa chữa gì các sụn bị thương tổn. Mục đích điều trị là giảm đau khớp, viêm, cải thiện, gìn giữ chức năng hoạt động.

– Có thể dùng biện pháp bảo tồn như nghỉ ngơi, thể dục và giảm cân, vật lý trị liệu hay các dụng hỗ trợ.

– Áp túi nóng trước khi tập và túi lạnh sau khi tập thể dục để giảm đau, sưng.

– Bơi lội là cách tập thể dục tốt ít làm chấn thương khớp.

– Nên dùng vài môn thể dục khác như đi bộ, đạp tại chỗ, tập nâng tạ nhẹ.

Chuyên viên vật lý liệu pháp có thể cung cấp các dụng cụ như gậy, thanh nẹp, dụng cụ tập đi, nhằm giảm mọi chấn thương nơi khớp.

BS Dương Minh Hoàng

Viêm khớp dạng thấp

Đây là bệnh quan trọng hàng đầu trong các bệnh thấp khớp ở người lớn, thường gặp ở phụ nữ lứa tuổi từ 30 đến 60, có thể kéo dài đến suốt đời.

Biểu hiện đặc trưng của bệnh là hiện tượng viêm màng hoạt dịch "bào mòn" ở các khớp nhỏ ngoại biên, đối xứng hai bên, diễn biến kéo dài, tiến triển từng đợt, có xu hướng tăng dần, dẫn đến tổn thương bào mòn sụn khớp và đầu xương, gây dính khớp, biến dạng khớp và mất chức năng hoạt động của khớp.

Bệnh khởi phát từ từ, tăng dần nhưng đôi khi cũng tiến triển rất nhanh. Vị trí bắt đầu thường ở các khớp nhỏ như cổ tay, bàn tay, ngón tay... sau đó ảnh hưởng tới các khớp khác như khớp gối, khớp cổ chân, khớp khủyu tay, khớp vai, khớp háng... Biểu hiện chung của bệnh là hiện tượng cứng khớp gây khó cử động các khớp vào buổi sáng lúc mới ngủ dậy và hiện tượng sưng, nóng, đỏ, đau các khớp nhỏ, đặc biệt ở bàn tay như cổ tay, bàn ngón tay, bàn ngón chân và khớp gối, đối xứng hai bên. Bệnh nhân còn có các dấu hiệu toàn thân như sốt, mệt mỏi, xanh xao, gầy sút.

Diễn biến của bệnh rất khác nhau với từng người bệnh, thường qua 2 giai đoạn:

– Giai đoạn đầu thường kéo dài 1 đến 3 năm. Biểu hiện là sưng, nóng, đỏ, đau, hạn chế vận động các khớp do màng hoạt dịch của khớp bị viêm. Bệnh diễn biến từng đợt, nhưng chưa để lại di chứng gì đáng kể tại khớp sau một đợt viêm, chưa ảnh hưởng nhiều tới toàn bộ cơ thể người bệnh.

– Giai đoạn sau: Bắt đầu xuất hiện tổn thương bào mòn ở sụn khớp và đầu xương do hậu quả của hiện tượng viêm màng hoạt dịch, các tổn thương này một khi đã xuất hiện thì không thể mất đi được. Nếu không được điều trị đúng, các tổn thương sụn khớp và đầu xương ngày càng nặng nề làm khe khớp này dần dần hẹp lại, các đầu xương dính với nhau gây biến dạng khớp, dính khớp, cứng khớp và mất khả năng vận động của khớp. Lúc này, bệnh thường ảnh hưởng tới toàn thân với các biểu hiện: sốt, xanh xao, gầy sút, teo cơ, mệt mỏi, suy nhược...

Ở cả 2 giai đoạn của bệnh, bệnh nhân luôn luôn cần được làm thêm các xét nghiệm đặc hiệu như chụp X-quang hai bàn tay, tìm yếu tố viêm khớp dạng thấp trong máu và một số xét nghiệm khác tùy từng trường hợp cụ thể để thầy thuốc chẩn đoán xác định bệnh viêm khớp dạng thấp, đồng thời chẩn đoán phân biệt với các bệnh khớp khác có những biểu hiện lâm sàng tương tự.

Cần điều trị toàn diện gồm:

1. Điều trị triệu chứng sưng, nóng đỏ, đau và cải thiện khả năng vận động của khớp (các thuốc kháng viêm, giảm đau).

2. Điều trị cơ bản (các thuốc chống thấp khớp có thể cải thiện bệnh).

3. Điều trị hỗ trợ: Tập luyện, dự phòng, phục hồi chức năng, vật lý trị liệu, thuốc y học dân tộc, châm cứu, xoa bóp...

4. Điều trị các biến chứng do thuốc điều trị (biến chứng viêm loét dạ dày tá tràng, loãng xương, nhiễm trùng, rối loạn nội tiết...) và sửa chữa các di chứng dính khớp, biến dạng khớp (phẫu thuật chỉnh hình).

5. Giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội cho người bệnh.

Trong đó, 3 mục tiêu đầu là then chốt vì việc điều trị triệu chứng, điều trị cơ bản và điều trị hỗ trợ nếu có hiệu quả và an toàn sẽ làm cho bệnh ổn định sớm, hạn chế các thương tổn tại sụn khớp và xương, giảm số lượng các thuốc kháng viêm giảm đau phải sử dụng do đó giảm được các biến chứng của các loại thuốc.

Điều trị cơ bản: Là việc sử dụng các thuốc chống thấp khớp để cải thiện bệnh nhằm làm ngưng hoặc giảm sự tiến triển của bệnh. Việc điều trị cơ bản cần được tiến hành càng sớm càng tốt, tốt nhất là trước khi xuất hiện các tổn thương ở sụn khớp và đầu xương, vì thuốc chỉ có thể làm ngưng sự tiến triển của bệnh chứ không thể cải tạo được các tổn thương thực thể đã có tại sụn khớp do các phương pháp điều trị trước đây, đặc biệt là viêm, loét dạ dày – tá tràng, rối loạn nội tiết...

Các thuốc để điều trị cơ bản bệnh viêm khớp dạng thấp gồm: Methotrexate, Sulfasalazine, Hydroxychloroquine, muối vàng chích hoặc uống, D-Penicillamine, Cyclosporine A... Việc lựa chọn thuốc hoàn toàn do các thầy thuốc lựa chọn dựa trên từng bệnh nhân cụ thể, mức độ bệnh, giai đoạn bệnh, tình trạng sức khỏe...

Thuốc điều trị cơ bản thường được sử dụng lâu dài, có thể nói là suốt đời, nếu không có tác dụng bất lợi buộc phải bỏ điều trị. Vì vậy, việc điều trị cơ bản cần có sự theo dõi và đánh giá của thầy thuốc chuyên khoa theo những nguyên tắc đã được qui định. Các yếu tố như thời gian điều trị, liều thuốc, phối hợp thuốc, ngưng thuốc, thêm thuốc, đổi thuốc... hoàn toàn phải có ý kiến của thầy thuốc chuyên khoa trực tiếp theo dõi.

Việc ngừng thuốc tùy tiện, dùng thuốc không đều, không đủ liều, không theo dõi sát, bỏ dở điều trị... là những nguyên nhân làm giảm hoặc làm mất hiệu quả của điều trị.

PTS Lê Anh Thư (Bệnh viện Chợ Rẫy)

Thấp khớp cấp tính (Bệnh thấp tim)

Đây là một bệnh thấp khớp của người nhỏ tuổi; thường gặp ở lứa tuổi 5-15, ít thấy ở trẻ em dưới 3 tuổi và người lớn trên 25 tuổi.

Bệnh thường bắt đầu sau khi bé bị viêm họng do vi trùng liên cầu khuẩn từ 1 đến 3 tuần. Viêm họng do liên cầu khuẩn là nguyên nhân thúc đẩy cơ thể phản ứng toàn thân theo kiểu miễn dịch – dị ứng, đặc biệt là ở khớp và tim. Bệnh thấp tim không phải là bệnh nhiễm trùng.

Bệnh xuất hiện đột ngột, các dấu hiệu rõ ràng, mạnh mẽ, nên được gọi là cấp tính. Có thể nhận biết bệnh nhờ các dấu hiệu chính như:

– Sốt nóng vừa (37,5 độ C) hoặc cao (40 độ C).

– Đau các khớp lớn như khớp gối, cổ chân, cổ tay, khủyu. Thấy rõ khớp sưng, nóng, đỏ và đau nhức. Đau khớp thường "chạy" lần lượt từ khớp này qua khớp khác. Cũng có khi các khớp chỉ thấy đau mà không thấy rõ sưng, nóng, đỏ hoặc có khi chỉ thấy một khớp bị đau.

– Có những đường vòng đỏ hồng hoặc các cục cứng nhỏ dưới da, ở dọc các gân, mu bàn tay, bàn chân.

– Nếu bị nặng sẽ thấy hiện tượng thở gấp và có thể đau ở vùng tim.

– Trong một số trường hợp có thể có những biểu hiện ở các cơ quan khác như: ngoài da, hô hấp, tiêu hoá, thần kinh.

Bệnh thường xảy ra vào mùa lạnh, nơi có không khí ẩm ướt, nhà ở chật chội, thiếu ánh sáng, ăn uống thiếu thốn.

Các chuyên gia y tế lưu ý các giai đoạn thường trải qua của bệnh thấp tim:

– Giai đoạn 1: Viêm họng liên cầu khuẩn.

– Giai đoạn 2: Bệnh thấp tim phát triển toàn diện (khớp, tim, da, thần kinh).

– Giai đoạn 3: Bệnh tim vĩnh viễn.

– Giai đoạn 4: Suy tim nặng dần không hồi phục hoặc làm tử vong.

Chứng đau thấp khớp bên ngoài tuy thấy rõ rệt nhất nhưng lại không đáng sợ; khớp không bao giờ bị làm mủ vì không phải bệnh nhiễm trùng. Và chỉ 5 đến 15 ngày sau là nó có thể tự khỏi mà không chữa trị gì. Bệnh nặng và đáng sợ là bệnh tim, có thể dẫn đến suy tim gây tử vong hoặc mang bệnh tim suốt đời. Theo một số liệu được thống kê, cứ 10 trẻ em bị bệnh thấp tim thì có hơn 1 trẻ bị chết (10,9%). Bệnh khỏi rồi vẫn có thể tái phát hoặc tiến triển nặng hơn. Khi trẻ đã bị bệnh thấp tim rồi (giai đoạn 2), phải đưa đến bệnh viện sớm để được điều trị.

Phòng trị:

– Trước hết, cần chú trọng cải thiện các điều kiện ăn, ở, chú ý vấn đề vệ sinh môi trường, điều kiện dinh dưỡng đối với trẻ em.

– Tích cực chữa trị đúng đắn viêm họng do liên cầu khuẩn.

– Phải cho trẻ em bị bệnh viêm họng nhiễm trùng ăn, ngủ riêng để tránh lây bệnh.

– Trẻ đã bị bệnh thấp tim một lần rồi phải tiếp tục dùng kháng sinh để ngăn ngừa tái phát. Trẻ cần được khám bệnh thường kỳ để thầy thuốc theo dõi, hướng dẫn cụ thể cách săn sóc, cách dùng thuốc và thời gian dùng thuốc.

– Nếu nhận thấy các dấu hiệu của bệnh thì phải sớm đưa trẻ đến các phòng khám chuyên khoa, thực hiện các xét nghiệm cần thiết theo chỉ định của thầy thuốc để có hướng điều trị kịp thời, giảm được nguy cơ ảnh hưởng xấu đến tim.

BS Trương Văn Anh Tuấn

Chứng đau lưng

Đau lưng là một chứng bệnh thường gặp. Có rất nhiều nguyên nhân gây đau lưng, nhưng thường gặp nhất là lao động không đúng cách. Đau lưng do chấn thương hoặc do bệnh của cột sống cũng tương đối hay gặp.

Nguyên nhân:

– Thoái hoá đĩa đệm: Đĩa đệm là phần nằm giữa 2 đốt xương của cột sống, có tính chất mềm và co giãn (nhờ vậy mà cột sống cong, ưỡn được). Các đĩa đệm có tác dụng giảm "xóc" khi có sức dồn nén. Các bệnh của đĩa đệm dẫn đến đau lưng thường lxuất hiện do sự thoái hoá của đĩa đệm, do tuổi tác ngày càng tăng, lao động nhiều khiến đĩa đệm phải chịu nhiều dồn ép lâu ngày, làm giảm đi tác dụng thun giãn.

– Thoát vị đĩa đệm: Khi mang hay vác một vật nặng, cột sống phải chịu sự đè nén của vật đó, và lẽ dĩ nhiên, đĩa đệm cũng phải nhận gánh nặng này. Nếu vật quá nặng, sức dồn ép quá mức, đĩa đệm phải phình ra, chèn ép lên các dây thần kinh, gây ra cảm giác đau. Những đĩa đệm nằm ở vị trí thấp thì sẽ chịu nặng nhiều hơn, điều đó giải thích tại sao người ta hay đau cột sống ở vùng thắt lưng.

Trong một số trường hợp, đĩa đệm còn đủ khả năng chịu đựng và chỉ phình ra có giới hạn, người bệnh đau vài ba ngày là đỡ. Nếu vật nặng quá sức chịu đựng của đĩa đệm, nhân của đĩa đệm phải di chuyển đẩy ra làm vỡ bao gối sụn và lồi ra ngoài đĩa đệm, chèn chặt vào các dây thần kinh, gây đau lưng dữ dội, có thể gây đau thần kinh toạ, nặng hơn có thể bị liệt chân. Trong trường hợp này, bệnh nhân đau thắt lưng cấp do thoát vị đĩa đệm.

– Thoái hoá cột sống: Đây là nguyên nhân thường gây đau lưng nhất. Khi người yếu thì đau càng tăng lên. Bệnh gây đau lưng từng đợt, giảm một thời gian rồi đau lại.

– Gai đốt sống: Thường là gai đốt sống thắt lưng và đốt sống cùng. Nếu có gai đốt sống cổ, bệnh nhân sẽ đau vùng gáy.

– Tư thế trong lao động: Trường hợp này rất thường xảy ra do trong quá trình lao động do không chú ý như cúi lưng để nâng vật nặng quá sức, làm cho lưng cong, ưỡn ra, đĩa đệm dễ bị trượt, gây chứng đau lưng cấp. Một số người có chứng đau lưng kinh niên do phải làm việc trong một tư thế ít thay đổi như thợ may, thư ký ngồi văn phòng, người nông dân đi cày phải cúi liên tục, những công nhân phải đứng máy liên tục, những tài xế xe...

– Bệnh dính các khớp cột sống.

– Bệnh viêm cột sống do nhiễm trùng.

– Một số di căn của ung thư lan đến cột sống: Các trường hợp ung thư phổi, ung thư vú, ung thư tuyến tuyền lập ở nam giới... cũng có thể di căn lên cột sống.

– Bệnh loãng xương: Thường gặp ở phụ nữ tuổi mãn kinh. Khi có bệnh loãng xương, các xương rất dễ bị gãy, nguy hiểm nhất là gãy chỏm xương đùi.

– Bệnh trượt cột sống do chấn thương: Hay đau ở vùng thắt lưng do trượt đốt sống lưng thứ 5, thường do chấn thương hoặc dị dạng cột sống.

– Bệnh ở một số cơ quan trong cơ thể: Như bệnh về đường tiết niệu và sinh dục, thường gặp là bệnh sỏi thận, viêm thận, bể thận, u ở thận, viêm tiền lập tuyến.

– Rối loạn nội tiết: Một số phụ nữ có rối loạn về kinh nguyệt cũng thường bị đau lưng, viêm tiền liệt tuyến ở nam giới...

– Một số bệnh ở đường tiêu hoá: Thường gặp là loét dạ dày, tá tràng, bệnh viêm tuỵ, bệnh sỏi mật...

– Các bệnh về thần kinh: Thường là các bệnh của tủy sống.

– Bệnh cùng hoá cột sống: Thường gặp ở đốt sống thắt lưng 5 do đốt sống bị lún xuống.

– Các bệnh toàn thân dẫn đến đau lưng: Như các bệnh nhiễm trùng gây sốt cao (sốt rét, thương hàn, sốt xuất huyết...)

– Bệnh vôi hoá cột sống (mục xương).

Ngoài các nguyên nhân kể trên, các yếu tố ảnh hưởng đến tâm thần cũng đóng vai trò gây đau lưng.

Phòng ngừa đau lưng

Để phòng ngừa đau lưng, chúng ta phải luôn luôn chú ý đến tư thế sinh hoạt, lao động đúng. Đây là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất. Những tư thế tuy đơn giản nhưng rất cần được quan tâm giữ đúng đắn là: nằm, ngồi, đứng, đi, nhấc vật nặng, mang xách vật nặng. Sau đây là những tư thế quan trọng cần chú ý.

Nằm

Không nên nằm trên giường quá cứng (như giường gỗ) hay quá mềm và trũng (như giường có lò xo mất độ giãn). Nên nằm nệm chắc đều nhưng mềm, có thể lót một miếng ván cứng dưới nệm nếu cần để tránh giường quá trũng. Không nên nằm gối quá cứng và quá cao khiến cổ gập, vai nhô lên. Nên chọn gối có kích thước nhỏ hoặc mềm vừa đủ lăn trở đầu mà cổ không bị quẹo. Khi nằm phải giữ sao cho đầu, cổ, thân thẳng. Tránh các tư thế vặn vẹo. Tránh nằm sấp vì sẽ gia tăng lực chịu đựng lên cột sống thắt lưng. Nên nằm ngửa ngay thẳng hay nằm nghiêng, ôm một gối dài trong tư thế thoải mái. Tránh nằm với tay lấy vật gì quá xa hay đan chéo tay với lấy đồ khiến thân hình vặn vẹo.

Từ nằm chuyển sang ngồi phải tránh vặn vẹo thân mình. Tránh hẳn tư thế bật ngồi lên thình lình khiến cột sống chịu lực bất thường hay gây đau. Khi phải ngồi lên trong tư thế ngửa, chúng ta nên chống 2 tay ra phía sau lưng, từ từ ngồi lên một cách nhẹ nhàng, không đột ngột.

Thế chuyển từ nằm giường sang ngồi tốt nhất là:

– Gập một chân, lăn theo trục thân. Gập cả hai chân, chống khủyu bên phía lăn và chống bàn tay bên kia để ngồi lên từ từ bên mép giường, nhẹ nhàng thư duỗi hai chân.

– Thế chuyển từ nằm đất sang ngồi và sang đứng dậy tốt nhất là nhờ sức cơ hai tay và hai chân, chậm rãi, tránh đột ngột: Nằm sấp, chống tay ngồi, mông dựa lên cẳng chân. Quì thẳng lên gối, gập một chân ra phía trước. Tì tay vào gối rồi đứng dậy từ từ.

Khi chuyển từ ngồi sang nằm cũng nên nhẹ nhàng, không nên ngã vật xuống giường hay vặn vẹo thân mà nên làm tiến trình ngược lại: Ngồi ngay thẳng bên mép giường, chống tay, nghiêng người dần dần. Nằm nghiêng xuống vừa co gối lại, nằm ngửa ra từ từ. Duỗi chân này rỗi duỗi chân kia ra. Những tư thế thường ngày này lại chính là tư thế chống đau khi bị bệnh.

Ngồi

Lời khuyên này đặc biệt được áp dụng cho các bệnh nhân đang đau lưng: Trước khi ngồi, nên đến đứng trước cái ghế muốn ngồi một cách từ từ, lưng thẳng ngay trước ghế tựa. Ngồi xuống trong tư thế thẳng lưng rồi sửa tư thế ngồi ngay ngắn trong tư thế sau cho lưng tựa thẳng vào thành ghế.

Các bước ngồi như sau:

Đứng thẳng trước ghế; bỏ một chân ra trước và một chân dưới ghế; ngồi thẳng xuống mép ghế; sửa tư thế ngồi; nhích sát chỗ tựa ghế; ngồi ngửa lưng ra chậm rãi, mắt nhìn ngang tầm. Khi chuyển từ ngồi sang đứng thì làm ngược lại tiến trình trên. Không nên ngồi xuống hay đứng dậy thình lình. Không nên gập người trước khi ngồi. Không nên gập người trước khi đứng dậy.

Chọn ghế ngồi tốt:

Ghế ngồi tốt có chỗ dựa lưng hơi ngả ra sau khoảng 30 độ, hoặc chỗ tựa lưng kín, có thể lót một gối nhỏ sau thắt lưng. Các ghế có độ nhún giúp bạn thay đổi dễ dàng tư thế phù hợp. Ghế chọn phải vừa tầm chân người ngồi, nghĩa là khi ngồi, gối cao hơn háng một chút, lưng hơi ngửa ra thoải mái.

Nên tránh ghế quá sâu, quá mềm, quá thấp, quá ngửa khi ngồi vào chỗ trũng, gập thân làm đôi, ảnh hưởng xấu đến tư thế chuyển đổi từ ngồi sang đứng và do đó ảnh hưởng đến cột sống.

Đứng

Khi đứng, nên đứng thẳng lưng, ngực ưỡn, hai vai hơi ra phía sau, cổ thẳng, đầu không vẹo lệch hay cúi, hai chân dang ra để tăng diện tích mặt chân đế và đứng vững hơn. Một chân có thể gác lên bục trước mặt và thay đổi chân khi đứng lâu. Không nên đứng rũ người, lệch thân sang bên, tựa nghiêng người vào cột nhà hay tường. Khi đứng trên xe buýt, xe công cộng, không nên nắm tay với trên cao làm thân bị vẹo lệch. Nên nắm thanh tựa hay nắm tay treo ngang tầm hoặc tựa lưng vào thành xe là hơn.

Đi

Tư thế tốt khi đi giống tư thế nhà binh: lưng thẳng, vai hơi ra sau trong mặt phẳng khung chậu; mắt nhìn ngang; tay đánh ra xa đều đặn để giữ thăng bằng tự nhiên, tránh tư thế nhìn mãi xuống đất hay ngược lại ngó hất mặt lên trời.

Tư thế làm việc

Không nên ngồi ở mép ghế và quá xa bàn làm việc, lưng khòm xuống. Không nên đứng chân thấp chân cao làm thân ẹo sang bên. Nhớ giữ thân luôn luôn ngay thẳng và nhìn thẳng ra trước mặt khi đọc sách hay làm việc với máy tính chẳng hạn.

Nên thay đổi tư thế làm việc thoải mái trên cao ngang tầm hơn là đặt dưới đất theo thói quen cũ như nhặt rau, vo gạo, lượm thóc...

Khi đứng, nên tựa mông, lưng vào tường (nếu có thể được) nhất là đối với phụ nữ có bầu hay bụng quá mập. Nhớ luôn giữ thẳng lưng khi làm việc.

Càng lớn tuổi, càng phải chú ý giữ tư thế tốt. Cột sống người có tuổi không còn mềm như khi trẻ; nên tránh hẳn các động tác cầu kỳ mang tính kỹ thuật không phục vụ cho sức khỏe.

Một số bài tập phòng và trị đau lưng

Bài 1:

Nằm ngửa người (eo lưng ép sát mặt đất), hai tay đặt trên ngực, co chống hai chân (bàn chân áp mặt đất). Hít một hơi đầy căng lồng ngực, bụng phình ra, nín hơi (đếm từ một đến mười). Sau đó từ từ thở ra, thót bụng, co hậu môn và co cơ mông, cho đến khi thở hết hơi và ép sát bụng, nín hơi (đếm đến 10) rồi thở nhẹ nhàng. Tiếp tục lặp lại 3-5 lần.

Bài 2:

Nằm ngửa, hai tay duỗi thẳng bằng hai vai, co chống hai chân. Co gấp hai chân, hai đầu gối đưa lên áp vào ngực, dùng hai bàn tay đan chéo ngón đưa lên ôm lấy phần dưới đầu gối, kéo ép đầu gối về phía ngực, rồi thả ra. Lập lại 8-10 lần. Sau đó thao tác giống như vậy như đối với từng chân cũng từ 8-10 lần.

Bài 3:

Nằm ngửa, hai cánh tay duỗi thẳng và áp sát hai bên thân hoặc co đặt bàn tay lên ngực. Co chống hai chân. Gồng bụng, gập người ngồi dậy, đồng thời nâng hai cánh tay và vươn người về phía trước (vẫn giữ tư thế co chống hai chân). Sau đó từ từ thả người trở lại tư thế ban đầu. Lặp lại 8-10 lần.

Bài 4:

Sấp mình, hai cánh tay để thẳng, dồn sức lên hai bàn tay chống trên sàn và dang rộng bằng vai, một chân duỗi thẳng dọc theo thân, một chân co (giống tư thế vận động viên chuẩn bị chạy). Ép mình xuống thấp và vươn tới phía trước bằng cách rướn đầu gối sát đất và ép sát bụng vào đùi. Sau đó trở về vị trí ban đầu, lặp lại 8-10 lần và đổi chân cũng làm 8-10 lần.

Bài 5:

Đứng vịn hai tay lên lưng của ghế tựa (cách lưng ghế khoảng chừng 40 cm). Từ từ ngồi xuống theo tư thế chồm hổm trên các ngón chân nhón. Sau đó trở lại tư thế ban đầu. Lặp lại 8-10 lần.

Bài 6:

Ngồi thẳng lưng trên một ghế tựa, hai bàn tay áp lên nhau và ép vào bụng, khom người, gồng bụng, gập về phía trước, sao cho cằm đặt giữa hai đầu gối. Từ từ nâng người mà vẫn gồng bụng, khi đã về tư thế ban đầu thì thư giãn bụng. Lặp lại từ 8-10 lần.

Những bài tập trên cần thực hiện trên sàn cứng có trải nệm. Tập từ từ mỗi ngày 1-2 lần vào buổi sáng hoặc tối trước khi đi ngủ. Trong vài ngày đầu có thể đau nhẹ, sau 5-7 ngày sẽ bớt. Không nên tập trong lúc đau lưng cấp.

Đau thắt lưng

Đau thắt lưng là một bệnh thường gặp. Chi phí dành cho việc điều trị và thiệt hại đối với xã hội cũng như cá nhân khá lớn. Di chứng để lại cho bệnh nhân là vấn đề phải quan tâm.

Đau thắt lưng là đau ngang lưng quần. Đau có thể khu trú một nơi ở giữa cột sống, cũng có thể ở các điểm cạnh cột sống thắt lưng hai bên đường giữa. Đau nhiều khi cơn đau lan toả sang hai bên, nhiều người gọi lầm là đau thận. Thường có mấy loại đau như sau:

Đau thắt lưng cấp tính

Đau thắt lưng xảy ra thình lình, dần dần hoặc dữ dội sau khi khiêng, nhấc vật nặng trong tư thế cúi lưng hay các tư thế sai, khiến sau khi khiêng không đứng thẳng lên được, phải đi đứng lom khom. Người dân gọi là cúp xương sống, cụp xương sống hoặc trẹo xương sống.

Đau thắt lưng cấp tính trong các trường hợp phải ngồi lâu trong tư thế sai, làm việc khom lâu dù là việc nhẹ, vận động thể thao ở tư thế cúi lưng và xoay thân thình lình. Đau thắt lưng đặt biệt hay thấp ở những người có tuổi khi tập mạnh cơ lưng bằng cách nằm ngửa rồi ngồi bật dậy, chân duỗi thẳng, bàn tay với, cố đụng ngón chân cái. Đôi khi ngoài đau thắt lưng cấp tính, bệnh nhân còn bị đau xuống cả hai chân và bí tiểu. Trường hợp này xảy ra khi dây chằng dọc sau bị rách thình lình và đĩa đệm bị lọt vào trong ống sống, gây chèn ép chùm rễ thần kinh đuôi ngựa.

Đau thắt lưng mạn tính

Sau giai đoạn cấp tính, bệnh nhân hoặc khỏi hoặc diễn biến thành đau mạn tính. Bệnh nhân đau dai dẳng, nhất là khi ngồi lâu hay làm nặng hoặc làm việc thường hay cúi lưng. Đau thường kèm mỏi cơ cạnh cột sống thắt lưng hay lan xuống hai mông. Cơn đau gây khó chịu, ảnh hưởng sinh hoạt hằng ngày. Đau thắt lưng mạn tính là tiền đề của đau thắt lưng thần kinh toạ.

Đau thần kinh toạ

Diễn biến nặng hoặc ngay tức thời của đau thắt lưng cấp tính hoặc sau một thời gian đau thắt lưng mạn tính là đau thần kinh toạ. Hơn 90% trường hợp đau thần kinh toạ xảy ra do thoát vị đĩa đệm đốt thắt lưng 4– 5. Bệnh nhân đi lại khó, thắt lưng bị vẹo sang bên. Khi họ nhảy mũi, cơn đau lan theo rễ bị chèn ép. Đau nhiều, có khi phải bò lết không chịu nổi. Cúi lưng khó khăn, lom khom. Đôi khi không thể nằm ngửa được do thắt lưng bị vẹo, còng. Cúi lưng rất khó và vướng, không thể cúi bình thường.

Tóm lại, đau thắt lưng cấp tính, đau thắt lưng mạn tính, đau thần kinh toạ là một vòng luẩn quẩn bệnh lý cần phải thoát ra bằng cách điều trị và phòng ngừa đúng đắn.

Đau thắt lưng tùy thuộc vào nhiều yếu tố sau: Trọng lượng của cơ thể, trọng lượng vật nặng kèm theo khi làm việc. Sự chịu đựng của các nhóm cơ giữ thăng bằng trong các tư thế khác nhau của cơ thể (các cơ bụng và các cơ cạnh cột sống, cơ tứ đầu và nhóm cơ mộng). Sự căng thẳng của hai nhóm cơ này rất quan trọng.

Bất cứ yếu tố nào ảnh hưởng làm mất sự cân bằng này sẽ gây ra đau vùng thắt lưng: sự quá tải của các nhóm cơ đối với công việc nặng nhọc quá sức; bệnh nhân mập mà các cơ yếu do thiếu tập luyện; các nhóm cơ giữ thăng bằng yếu do thiếp tập luyện dù chỉ làm việc nhẹ; khi đã có tuổi mà tập các động tác không phù hợp.

Cần lưu ý tư thế sinh hoạt, tư thế làm việc rất quan trọng ảnh hưởng chủ yếu vào vùng thắt lưng là vùng chịu lực nhiều nhất của cơ thể.

Các tư thế tốt cho thắt lưng theo thứ tự như sau:

– Nằm ngửa hoặc nghiêng một bên;

– Ngồi ngửa độn một chiếc gối ngang thắt lưng;

– Đứng hoặc đi lại thẳng lưng;

– Ngồi thẳng lưng;

Các tư thế xấu cho thắt lưng là:

– Ngồi lom khom lâu;

– Đứng lưng cúi khom;

– Đứng cúi thắt lưng khoảng 900 lượm vật nhẹ, tệ hơn nữa là làm nặng;

– Đứng lom khom và xoay thân kéo vật nặng;

– Với tay lên cao làm ẹo thắt lưng v.v...

BS Võ Văn Thành (TT Chấn thương chỉnh hình TP HCM)

Vẹo cột sống

Vẹo cột sống là một tật, một triệu chứng lâm sàng, không phải là một bệnh. Sự phân biệt bước đầu này rất quan trọng giúp chúng ta hiểu đúng đắn loại biến dạng này của cột sống.

Vẹo cột sống nơi thanh thiếu niên có thể từ nhẹ đến nặng. Các trường hợp nặng có thể đưa đến biến dạng lồng ngực, ảnh hưởng chức năng phổi, chức năng tim mạch và ảnh hưởng đến tính mạng. Vẹo cột sống là loại biến dạng khó chữa nhất trong các bệnh cột sống.

Nhìn thẳng cột sống từ sau ra trước, ta có thể quan sát các biến dạng cột sống, gọi là vẹo cột sống. Tất cả các loại vẹo cột sống đều kèm theo sự mất đối xứng của hai thân người khi chú ý đến nếp cổ, vai, đỉnh xương bả vai... Có hai loại vẹo cột sống là vẹo cột sống chức năng và vẹo cột sống cấu trúc.

Vẹo cột sống chức năng là những ca vẹo cột sống xảy ra thoáng qua, tự sửa chữa, khi nguyên nhân gây ra được điều trị thì vẹo cột sống biến mất... Các nguyên nhân thường thấy của vẹo cột sống chức năng là: Hai chân dài ngắn không đều; tư thế ngồi xấu của các cháu học sinh; co rút cơ vì đau do tổn thương thân đốt, đĩa đệm hay cơ học. Vẹo cột sống chức năng không phải là tật nguy hiểm. Khi giải quyết nguyên nhân thì vẹo cột sống sẽ khỏi.

Vẹo cột sống cấu trúc là vẹo cột sống có kèm theo biến dạng các đốt sống. Các biến dạng thân đốt sống gồm: nghiêng bên, hình nêm, xoay. Biến dạng này do khiếm khuyết trong sự cấu tạo cột sống trước khi sinh gây ra hoặc do bệnh lý trong thời kỳ tăng trưởng của cháu bé.

Biến dạng xoay là biến dạng khiến thân đốt sống hướng về bên lồi; từ đó sinh ra sự mất đối xứng lồng ngực của trẻ. Sự mất đối xứng thấy rõ với lõm sườn bên lõm và nhô sườn bên lồi là dấu hiệu của vẹo cột sống cấu trúc. Cho bệnh nhân đứng thẳng gối, cúi lưng, hai tay buông xuôi đều nhau, ta càng dễ thấy hơn. Đó là triệu chứng đơn giản, dễ tìm nhưng có tính quyết định. Các bà mẹ nên lưu lý nhận biết và thỉnh thoảng xem xét lưng của các cháu.

Nhiều bệnh lý khác nhau có thể làm xuất hiện vẹo cột sống. Vài bệnh lý thường thấy là: dị tật bẩm sinh cột sống lúc mới sinh: bệnh lý não, tủy; nhiễm trùng gây liệt; bệnh lý cơ... Ngoài ra còn có các bệnh lý phối hợp vẹo cột sống và các triệu chứng khác của bệnh đặc thù của bộ xương hay hệ thần kinh cơ. Những trường hợp vẹo cột sống này đặt ra vấn đề điều trị chuyên biệt theo nguyên nhân bệnh lý.

Trong nhiều trường hợp, ta không biết rõ nguyên nhân vẹo cột sống. Vẹo không rõ nguyên nhân chiếm 80% các ca vẹo cột sống. Đây là một bệnh bí ẩn, thường có tiềm căn gia đình, yếu tố di truyền.

Vẹo cột sống không rõ nguyên nhân xuất hiện trong thời kỳ tăng trưởng của cột sống. Vẹo cột sống xuất hiện càng sớm càng có nguy cơ tiến triển. Tuy nhiên, các đường cong vẹo cột sống có thể gia tăng ở tuổi trung niên do lún xẹp hay thoái hoá, đặc biệt sau mãn kinh hay sau khi sinh. Sự tăng trưởng cột sống có thể được theo dõi đều đặn bằng cách đo chiều cao trong tư thế ngồi.

Sự trầm trọng của vẹo cột sống không rõ nguyên nhân tùy thuộc vào phần lớn vào tuổi xuất hiện của sự vẹo lệch.

Có ba thể lâm sàng thường thấy:

– Thể ấu nhi: xuất hiện trước ba tuổi.

– Thể thiếu nhi: xuất hiện ở trẻ từ ba tuổi đến dậy thì.

– Thể thiếu niên: thể này ít nguy hiểm sau tuổi dậy thì vì giai đoạn tăng trưởng còn lại ngắn.

Vẹo cột sống lưng thường cho di chứng và biến chứng lồng ngực, tim phổi trầm trọng nhất. Nếu thiếu điều trị thích ứng, sự phát triển liên tục đến khi trưởng thành cuối thời kỳ phát triển xương sống sẽ tạo ra những hậu quả nặng nề trên các mặt hình thái, chức năng và tâm lý người bệnh.

Phòng ngừa vẹo cột sống cho trẻ em

Điều trị bệnh vẹo cột sống rất phức tạp và khó khăn, nhất là bằng phẫu thuật, vì thế mục tiêu của xã hội không phải chỉ là theo dõi điều trị các ca đã gặp mà còn phát hiện càng sớm càng tốt các cháu mới bắt đầu vẹo cột sống để phòng ngừa tật vẹo cột sống.

Trong hơn hai mươi năm qua, hơn 2% các cháu ở tuổi học sinh bị vẹo cột sống và hơn 10% trong số này có vẹo cột sống tiến triển. Phần lớn là loại vẹo cột sống không rõ nguyên nhân.

Sự phòng ngừa luôn luôn cần thiết và quan trọng hơn là điều trị đặc biệt đúng cho vẹo cột sống. Các bậc phụ huynh, thầy cô giáo, nhân viên y tế cần lưu ý tìm kiếm định kỳ sự biến dạng gù nhô của lồng ngực và cột sống vẹo bằng động tác đơn giản là bảo trẻ cúi lưng và xem từ phía sau. Sự quan tâm này giúp khám phá càng sớm càng tốt các ca vẹo cột sống có nguy cơ tiến triển ngay từ khi góc vẹo mới hơn 100.

Tất cả các ca này cần được lập chương trình theo dõi định kỳ suốt trong thời kỳ tăng trưởng của các cháu đặc biệt các cháu có yếu tố nguy cơ (tuổi, vị trí, biến dạng cấu trúc). Khi phát hiện sự yếu tố rõ ràng của sự gia tăng độ vẹo trên X – quang, ta phải lập tức điều trị phòng ngừa ngay không chờ đợi. Nên nhớ rằng các ca có độ vẹo nặng trên 900 bắt đầu bằng góc vẹo nhỏ 10-200 khi bị bỏ qua. Vài biện pháp chọn lọc có giá trị trong thời gian đầu tiến triển bệnh như kéo giãn ban đêm, kéo giãn động cột sống, mang áo nẹp Milwaukee, kích thích điện v.v... có thể phòng ngừa tiến triển vẹo cột sống rốt nếu áp dụng sớm. Phải thiết lập ngay biểu đồ theo dõi tăng trưởng của các cháu định kỳ và theo dõi sát sự tiến triển vẹo để can thiệp kịp thời.

Nên lưu lý một số điểm sau đây:

– Luôn luôn theo dõi định kỳ sự tăng trưởng cột sống của cháu, các bà mẹ dễ dàng nhận ra sự mất cân đối của lồng ngực các cháu khi bảo các cháu cúi lưng và nhìn từ phía sau lưng ra trước.

– Khi nghi ngờ nên chụp X quang để phát hiện sớm vẹo cột sống. Đây là phương pháp duy nhất hữu hiệu để chẩn đoán chính xác, do đó các bà mẹ đừng ngần ngại thực hiện.

– Tất cả các ca vẹo cột sống cấu trúc có góc vẹo trên 100 đều cần được theo dõi.

– Mỗi ba tháng phải chụp kiểm tra một lần, nhất là trẻ trong độ tuổi tăng trưởng từ 9 đến 14 tuổi.

– Nếu phát hiện sự gia tăng vẹo cột sống thì phải bắt đầu áp dụng điều trị ngay.

Thông thường có hai cách điều trị:

– Điều trị chỉnh trực bằng áo bột được thay đổi lặp đi lặp lại theo sự tăng trưởng thường gây phiền toái về mặt tâm lý lẫn thể chất, khiến sự hợp tác điều trị ở tuổi thiếu niên kém.

– Điều trị phẫu thuật thường kèm theo sự bất tiện là sẽ giới hạn một số chức năng vận động của cột sống.

Không có thần dược nào dựng cột sống thẳng lên. Việc điều trị phải nghiêm túc, chặt chẽ, liên tục và đầy kiên nhẫn. Càng sớm phát hiện điều trị càng có hiệu quả.

PTS Võ Văn Thành, Sức Khoẻ & Đời Sống

Gai cột sống

Gai căng: Thường thấy ở cột sống vùng thắt lưng do sự căng dần đĩa đệm bởi các lực căng (làm việc nặng, ngồi nhiều trong tư thế sai...).

Gai nén: Thường thấy ở cột sống vùng thắt lưng do sự nén ép lên cột sống thường xuyên vì làm việc nặng quá mức lâu ngày. Cơ thể thích ứng bằng cách làm rộng bề mặt chịu lực của xương quanh đĩa sống. Bề mặt càng lớn, lực tác động lên đĩa sống càng giảm đi.

Gai nối: Để bất động tự nhiên đĩa sống bị biến đổi do lực tác động hay thoái hoá đĩa đệm, cơ thể thích ứng bằng cách tạo ra cầu xương cố định đĩa sống. Cầu xương làm hai thân đốt kề nhau dính lại có khi vững chắc, có khi không vững chắc.

Gai thành sau thân đốt sống: Gặp ở vùng cột sống cổ nhiều hơn ở vùng thắt lưng, ít được lưu ý vì khó nhận ra trên X-quang thường quy.

Cốt hóa dây chằng dọc trước cột sống trong bệnh viêm dính xương sống, thấy ở một số bệnh nhân trong độ tuổi thanh niên.

Các trường hợp thường thấy gai xuất hiện là:

– Do làm nặng quá sức.

– Do làm việc trong tư thế sai lâu ngày, do tiến trình thoái hoá cột sống và đĩa đệm xảy ra nơi người có tuổi.

– Do hậu quả chấn thương cột sống cũ, do lao cột sống cũ đã lành từ lâu.

– Do biến dạng cột sống như cong, vẹo cột sống đã phát triển từ lâu.

Phần lớn các trường hợp bệnh nhân có gai cột sống nhưng không có triệu chứng gì. Khi chụp X-quang vì một bệnh khác, họ mới phát hiện ra. Như vậy, gai cột sống không phải lúc nào cũng gây đau.

Gai cột sống có thể gặp ở ba nơi: cổ, lưng và thắt lưng. Gai cột sống thắt lưng thường thấy nhất, kế đó là gai cột sống cổ và cuối cùng là gai cột sống lưng. Gai cột sống thắt lưng thường gặp ở vùng đốt sống thắt lưng thấp (TL 3, TL4, TL5). Vùng này chịu lực nhiều nhất. Gai mọc ra phía trước không ảnh hưởng trực tiếp lên rễ thần kinh. Gai mọc ra sau có thể làm hẹp lỗ liên hợp và gây chèn ép rễ thần kinh khi ống sống bị hẹp quá mức. Gai cột sống thắt lưng thường gặp ở hai độ tuổi:

– Tuổi trung niên nếu bệnh nhân đã bắt đầu làm việc nặng từ trẻ;

– Tuổi già do tiến trình thoái hoá đĩa đệm.

Ý thức giữ gìn tư thế đúng trong khi học tập, sinh hoạt, làm việc hằng ngày của mỗi cá nhân rất quan trọng. Không nên làm việc quá sức mình hay làm việc trong tư thế không tốt trong thời gian dài. Nên thay đổi điều kiện làm việc hợp lý hoặc sử dụng các phương tiện máy móc làm thay các việc quá nặng nề để bảo vệ tốt chức năng cột sống cổ, lưng, thắt lưng. Các biện pháp vệ sinh lao động phù hợp với từng nghề nghiệp chuyên môn và hoàn cảnh làm việc khác nhau cần được chú ý thực hiện.

Không nên quá lo sợ mà phải hiểu rõ gai cột sống để phòng tránh làm gai gia tăng và can thiệp khi hết sức cần thiết.

PTS Võ Văn Thành

Viêm cột sống dính khớp

Đây là bệnh khớp mãn tính thường gặp ở nam giới (90%), trẻ tuổi (60% dưới 20 tuổi và 80% dưới 30 tuổi). Thường biểu hiện ở các khớp cùng chậu, các khớp cột sống và các khớp ngoại biên, hay dẫn đến dính khớp háng và cột sống, gây nên tàn phế từ rất sớm nếu không được chẩn đoán và chữa trị đúng.

Có 70% ca bệnh bắt đầu từ từ và 30% diễn biến đột ngột, cấp tính. Bệnh có thể xảy ra sau chấn thương, nhất là vùng cột sống.

Dấu hiệu ban đầu thường khó xác định: đau vùng cột sống thắt lưng, vùng mông và các khớp lớn ngoại biên (thường nhất là khớp háng và khớp gối). Toàn thân mệt mỏi, gầy sút do teo cơ nhanh, sốt nhẹ; viêm mống mắt; tim rối loạn dẫn truyền, hở động mạch chủ nhẹ.

Ở giai đoạn toàn phát, có viêm các khớp ở chi với đặc điểm: viêm ở khớp lớn (khớp háng, khớp gối, khớp cổ chân...), viêm đối xứng, teo cơ nhanh. Viêm cột sống (cổ, lưng, thắt lưng) thường xuất hiện muộn hơn. Vận động bị hạn chế do giảm độ giãn cột sống và lồng ngực; teo khối cơ cạnh cột sống làm cột sống nhô ra sau; viêm khớp vùng chậu hai bên.

Bệnh tăng dần sẽ dẫn đến dính và biến dạng toàn bộ cột sống và hai khớp háng. Đến lúc dính hoàn toàn, bệnh nhân sẽ hết đau. Nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị đúng, các khớp sẽ dính ở những tư thế xấu, gù vẹo nặng, chân co quắp (dính khớp háng) không đi lại được. Biến chứng của bệnh làm suy hô hấp, tâm phế mãn, lao phổi, liệt hai chi dưới (do chèn ép tủy và rễ thần kinh).

Điều trị: Có thể dùng thuốc kháng viêm không có steroid (như Phenylbutazone, Indomethacin, Diclofenac, Naproxen), thuốc giãn cơ (Myonal, Coltramyl, Surdalud, Valium) Dùng Sulphasalazin 2 g hàng ngày trong 2-5 năm, có tác dụng tốt đối với các khớp ngoại biên (háng, gối).

Song song, bệnh nhân phải tập vận động sớm và kiên trì nhằm chống dính khớp, chống tư thế xấu.

Khi bệnh tiến triển, phải để khớp ở tư thế cơ năng, nằm ngửa trên ván cứng, chân duỗi thẳng, không gối, không kê độn khớp gối, vật lý trị liệu, bơi lội, phục hồi chức năng, xạ trị...

PTS Bs Lê Anh The

Thoát vị đĩa đệm cột sống

Một nghiên cứu về mổ các tử thi trên 20 tuổi cho biết, có 1/3 ca bị thoát vị đĩa đệm. Tỷ lệ khá cao này nhắc nhở chúng ta cần phải sớm quan tâm đến cột sống ngay từ khi còn trẻ.

Đĩa đệm là gì? Là vật chèn giữa 2 đốt xương sống, giống như cái "gối sụn" hơi phồng lên ở trên và dưới, khớp với mặt lõm của đốt xương sống. Trong gối sụn chứa dịch nhầy đặc, ở giữa là phần nhân có thể di động. Nhờ thế, đĩa đệm có tính đàn hồi và có tác dụng như một vật chêm giúp giảm xóc khi có lực dồn ép đè lên cột sống. Ngoài ra, đĩa đệm còn có thể di chuyển ra bốn phía, nhờ đó mà cột sống có thể cong, ưỡn và nghiêng qua lại.

Thế nào là thoát vị đĩa đệm?

Khi mang vác vật nặng, cột sống phải chịu sự đè nén và tất nhiên đĩa đệm cũng phải nhận gánh nặng này. Những đĩa đệm ở vị trí thấp sẽ phải chịu nặng nhiều hơn, vì thế ta hay đau cột sống ở vùng thắt lưng.

Nếu vật quá nặng, sức ép dồn quá mức, đĩa đệm sẽ phình ra và chèn ép lên dây thần kinh và gây cảm giác đau. Nếu đĩa đệm chỉ phình ra thì người bệnh chỉ đau vài ngày. Nếu vật nặng quá làm nhân đĩa đệm bị đẩy ra, làm vỡ bao gối sụn và lồi ra ngoài, các dây thần kinh bị chèn ép và gây đau dữ dội, có thể gây đau dây thần kinh toạ hoặc liệt chân.

Vì sao thoát vị đĩa đệm?

Có nhiều nguyên nhân gây ra thoát vị đĩa đệm nhưng phần lớn là do tư thế lao động không đúng như: cúi lưng, khom người cố gắng mang vác một vật nặng quá sức, đột ngột thay đổi tư thế trong khi di chuyển vật nặng hoặc bất ngờ làm động tác mạnh để vặn lưng, ưỡn người...

Ngoài ra, thoát vị đĩa đệm còn có thể gặp ở những người ít vận động, cơ bắp cùng cột sống trơ cứng, không mềm mại nên khi lao động với tư thế không đúng dễ bị cụp xương sống và gây chứng đau lưng cấp tính, đau rất dữ dội.

Người bị chấn thương cột sống cũng có thể bị thoát vị đĩa đệm. Người làm việc trong tư thế cúi lâu liên tục trong nhiều giờ, nhiều ngày như lái xe, thợ may, thư ký, thợ cấy... tuy cột sống chỉ chịu một áp lực nhẹ nhưng liên tục nên có thể ảnh hưởng đến đĩa đệm.

Điều trị như thế nào?

– Trường hợp nhẹ: Chỉ cần nghỉ ngơi, thư giãn và dùng thuốc giảm đau chống viêm như aspirin, diclofenac hoặc dùng corticoid; tùy theo mức độ bệnh có thể kết hợp thuốc giảm co cứng cơ như decontractyl, carisoprodol... theo đúng chỉ định của bác sĩ điều trị.

Trong thời gian điều trị bệnh nhân phải nằm nghỉ ngơi hoàn toàn trong tư thế thoải mái 3-5 ngày. Khi trở lại làm việc phải dè dặt, nhẹ nhàng, không mang vác nặng, tránh những cử động đột ngột hay những cuộc đi xe, ngồi tàu lâu ảnh hưởng đến cột sống... Tuyệt đối tránh xoa bóp, kéo nắn trong thời gian điều trị vì có thể làm đau thêm hoặc đau thần kinh toạ.

– Trường hợp nặng (nghĩa là sau khi thực hiện điều trị như trên từ 3 tháng trở lên mà không có hiệu quả: Phải mổ cột sống nhưng kết quả cũng rất giới hạn.

Những năm gần đây, y học đã thực hiện giải áp đĩa đệm bằng laser qua da. Mỗi lần thực hiện chỉ mất 15– 20 phút, kết quả giảm đau thấy ngay. Người bệnh có thể xuất viện ngay và sau một tuần có thể trở lại làm việc nếu là công việc nhẹ. Phương pháp này chỉ thực hiện ở những bệnh nhân bị rạn nứt hoặc rách đĩa đệm, các bệnh nhân bị viêm xương, gai cột sống hay ung thư đều không áp dụng được.

Phòng bệnh:

– Không làm việc quá sức, bố trí thời gian lao động, nghỉ ngơi hợp lý.

– Tránh các tư thế làm việc bất lợi cho cột sống; không cong lưng, cúi gập hay nghiêng người về một phía khi mang vác vật nặng. Khi cần nâng vật nặng, nên gập khớp háng và khớp gối để ngồi thấp xuống rồi nâng lên theo tư thế cân bằng, thẳng lưng và từ từ đứng dậy.

– Không làm việc ở tư thế cúi, nghiêng hoặc ngồi quá lâu. Thợ may, thư ký, lái xe... cần có chế độ nghỉ ngơi, vận động điều hoà và thay đổi tư thế một cách hợp lý.

– Không thực hiện quá mức và đột ngột những động tác cong, ưỡn, nghiêng mình.

– Tập thể dục thể thao đều đặn để tăng cường thể lực, tăng sức chịu đựng của cơ thể và cột sống.

– Cần dinh dưỡng đủ, đúng và bổ sung calci hợp lý.

Điều trị thoát vị đĩa đệm cột sống bằng laser

Y học hiện chưa thể "vá" vành xơ nên khi đĩa đệm rách hẳn thì phương pháp duy nhất là phẫu thuật nạo bỏ nhân đĩa đệm để giải ép chỗ thần kinh bị đè. Nếu đĩa đệm chỉ bị phình thì có thể áp dụng một trong ba phương pháp điều trị không cần mổ sau:

– Tập vật lý trị liệu đúng cách: Đa số trường hợp có thể làm giảm áp lực lên nhân nhầy khiến đĩa đệm hết phình và bệnh nhân hết đau. Lưu ý là sau đó phải giữ gìn theo đúng phương pháp đã hướng dẫn vì bệnh rất dễ tái phát.

– Tiêm vào đĩa đệm một chất chiết xuất từ cây đu đủ (Chymopapain) làm tiêu nhỏ chân nhầy. Nguy hiểm lớn nhất là gặp phản ứng quá mẫn (sốc do phản ứng quá mạnh của cơ thể) gây chết người như trường hợp tiêm pénicilline.

– Cách thứ 3 là sử dụng laser – là một kỹ thuật làm tăng năng lượng, tăng sức mạnh của ánh sáng bằng cách kích thích ánh sáng. Năng lượng tập trung như vậy sẽ làm nhiệt độ lên cao và làm bốc hơi các mô được chiếu vào. Đặc biệt laser chỉ tập trung phá những mô có màu sậm, không phá những mô trong veo như thủy tinh thể.

Trường hợp vành xơ chưa bị rách thì có thể áp dụng 1 trong 3 phương pháp kể trên, nhưng khi nhân nhầy lọt hẳn ra ngoài thì chỉ nên điều trị bằng phẫu thuật. Nếu đốt bằng laser hoặc tiêm Chymopapain thì có thể nguy hiểm vì vành xơ không còn nguyên, sức nóng hoặc thuốc có thể theo chỗ rách lan ra ngoài làm hại mô thần kinh. Phương pháp đốt bằng laser hấp dẫn cả với bác sĩ và bệnh nhân vì không phải phẫu thuật, không cần gây mê, lại thực hiện nhanh chóng, có kết quả tức khắc, người bệnh thường hết đau ngay và ra về trong ngày.

Một lần phóng tia laser tốn khoảng 1800-2.000 USD. Để tránh hao tốn vô ích và không gây biến chứng cho bệnh nhân sau khi điều trị, ngoài việc chọn chỉ định điều trị đúng, thao tác của bác sĩ còn phải thuần thục, máy móc dụng cụ phải tốt, phòng mổ và dụng cụ phải bảo đảm vô trùng...

TS Vũ Tam Tỉnh


Từ Khóa:

Các bệnh xương khớp || Cẩm nang sức khỏe gia đình || Mẹo vặt trong cuộc sống hàng ngày ||


Quảng cáo: Trái cây sấy xuất khẩu sỉ và lẻ

Xem thêm Cẩm nang sức khỏe gia đình

Chăm sóc trẻ em bệnh

Ung nhọt ngoài da

Căng thẳng mệt mỏi

Các bệnh về mắt

Bệnh tai mũi họng

Bệnh răng miệng

Bệnh về da và tóc

Các bệnh về hệ tuần hoàn

Bệnh về gan

Lao và các bệnh hệ hô hấp

Bệnh về đường tiết niệu

Các bệnh đường tiêu hoá

Các loại sốt thông thường

Phòng và trị bệnh ung thư

Trà Hoa Thảo Mộc Đà Lạt

Tìm kiếm

Nông Sản Sạch



Kẹo Xoài




Xoài Sấy Dẻo