Trà Hoa Thảo Mộc



Táo đỏ Tân Cương




Trà Hoa Hồng



Cẩm nang sức khỏe gia đình

Các bệnh đường tiêu hoá

Bệnh dịch tả

Bệnh dịch tả là loại bệnh gây tiêu chảy do ruột non bị nhiễm một loại vi khuẩn đặc biệt (vi khuẩn tả). Vi khuẩn tả có khả năng lây lan gây ra dịch nếu ta không có biện pháp phòng ngừa tốt.

Vi khuẩn tả chỉ gây bệnh ở bề mặt ruột non, không hủy hoại thành ruột non, không vào máu, do đó bệnh nhân thường chỉ bị tiêu chảy, không đau bụng, không sốt. Phân tiêu chảy có mùi tanh khó chịu. Đa số bệnh nhân tiêu chảy vài lần rồi khỏi. Những bệnh nhân nặng tiêu chảy ồ ạt, xối xả thường xuyên tiêu chảy hoặc rỉ rả liên tục, vẫn không đau bụng, không sốt. Sau khi tiêu chảy nhiều lần, bệnh nhân nôn, có thể dữ dội. Khi bệnh nhân bị tiêu chảy và nôn sẽ dẫn đến tình trạng mắt trũng, tay chân lạnh, đầu ngón tay móp, vọp bẻ (chuột rút), thều thào nói không thành tiếng. Tình trạng này có thể xảy ra sau vài ba giờ tiêu chảy, nếu không điều trị kịp thời bệnh nhân sẽ chết do tình trạng mất nước, nhất là trẻ em và người già.

Môi trường nước kém vệ sinh là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn tả phát sinh, phát triển. Ngoài ra ruồi có thể tiếp xúc với phân, chất nôn ói của bệnh nhân đưa vào miệng cũng là một nguyên nhân gây bệnh dịch tả.

Cách phòng bệnh dịch tả hữu hiệu nhất hiện nay là:

– Phải chú ý vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường tốt: rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, ăn thức ăn chín, nên hâm nóng trước khi ăn.

– Thức ăn sống như rau sống, trái cây phải được rửa sạch.

– Xử lý phân, rác sạch không để lan tràn ra ngoài.

– Diệt và tránh ruồi bu vào thức ăn, thức uống.

Điều trị

Nhiều bệnh nhân mắc bệnh dịch tả bị tử vong là do tình trạng mất nước nặng. Chính vì vậy, trước khi đưa bệnh nhân đến nơi điều trị, phải tạm thời cho uống nhiều nước, tốt nhất là nước Oresol, 1 gói pha với một lít nước chín, hoặc các loại nước pha chế sau đây:

– Nước muối đường: Một lít nước chín, một muỗng cà phê loại 5 ml (5 g) muối bột, 8 muỗng cà phê loại 5 ml (40 g) đường cát.

– Nước cháo muối: Một lít nước chín, một nắm (50 g) gạo (để nguyên xác gạo hoặc đánh nhuyễn ra uống không bỏ xác), muối bột hai nhúm (mỗi nhúm gọn giữa ba ngón tay cái, trỏ và giữa 3,5 g). Không để thừa hoặc thiếu muối.

Nguyên tắc cho bệnh nhân uống Oresol hoặc các loại nước pha chế:

– Cho bệnh nhân uống sớm nhất, tốt nhất là ngay sau lần tiêu chảy đầu tiên.

– Cho bệnh nhân uống không để khát nước.

– Bệnh nhân còn tiêu chảy còn cho uống.

– Nếu bệnh nhân nôn, cho uống thường xuyên mỗi lần một ít. Nếu bệnh nhân được cho uống đầy đủ như thế, hầu hết sẽ khỏi bệnh.

Hãy bỏ quan niệm sai lầm bệnh nhân tiêu chảy là do nước uống vào, nên không cho bệnh nhân uống. Nước tiêu chảy là nước từ cơ thể bệnh nhân tiết ra, uống nước để bù lại số lượng nước mất, giúp bệnh nhân thoát khỏi nguy hiểm. Nên chú ý, nước cho bệnh nhân uống là nước Oresol hoặc nước pha chế theo thành phần trên mới có đủ chất cho nước hấp thụ vào cơ thể.

Những bệnh nhân bị tiêu chảy, dịch tả cần được ăn, bú (đối với trẻ) đầy đủ hơn người bình

thường, bệnh nhân được dinh dưỡng tốt sẽ mau lành bệnh. Trong lúc đang bị tiêu chảy nặng, bệnh nhân có thể ăn, bú ít do yếu sức, cần được cho ăn, bú nhiều lần, thức ăn lúc đầu có thể là cháo thịt dần dà trở lại thức ăn bình thường càng sớm càng tốt, nếu có điều kiện cho thức ăn có chất dinh dưỡng cao ít nhất trong một tuần sau khi hết tiêu chảy.

BS Nguyễn Thế Dũng (Trung tâm Bệnh Nhiệt đới TP HCM)

Bệnh lỵ Amíp

Lỵ Amíp là tình trạng nhiễm trùng ở ruột già do Entamoeba histolyca. Ở Việt Nam, tỷ lệ người lành mang mầm bệnh có nơi đến 25%, tại thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ trung bình là 8%. Lứa tuổi mắc bệnh nhiều nhất từ 20 đến 30, trẻ em dưới 5 tuổi ít mắc bệnh.

Bệnh lỵ Amíp dễ hoành hành trong điều kiện sinh hoạt kém, ăn uống thiếu vệ sinh, vệ sinh ngoại cảm thấp, rác chung quanh nhà tạo điều kiện cho ruồi phát triển và mang Amíp gieo rắc khắp nơi. Đây là bệnh lây qua đường tiêu hoá. Amíp theo thức ăn, nước uống vào miệng; khi đến ruột thì xâm nhập vào niêm mạc ruột, gây ra những vết loét nhỏ trong lòng ruột và biểu hiện bên ngoài bằng hội chứng lỵ.

Triệu chứng

Thường gặp là hội chứng lỵ, bao gồm đau bụng, mót rặn và tiêu phân đàm máu kèm theo sốt nhẹ từng cơn.

– Thể cấp tính: Đau bụng quặn từng cơn, đau dọc theo khung đại tràng trước khi đi tiêu. Mót rặn, đau buốt hậu môn kèm cảm giác mắc đi cầu dữ dội. Tiêu phân nhầy máu, đôi khi xen kẽ với tiêu chảy, mỗi lần đi tiêu ít phân, nhưng đi nhiều lần trong ngày.

Nếu ở thể nhẹ thì tổng trạng tốt, tiêu đàm máu vài lẫn mỗi ngày; thể trung bình: bệnh nhân mệt, tiêu đàm máu khoảng 5-15 lần mỗi ngày; thể nặng; bệnh nhân suy kiệt, mất nước, rối loạn chất điện giải, bụng chướng, cảm giác mót rặn và đau bụng nhiều, tiêu đàm máu 15 lần/ngày.

– Thể bán cấp: Bệnh nhân đau bụng ít, tiêu chảy phân lỏng ít nhày nhớt, ít khi có cảm giác mót rặn, đôi khi có táo bón.

– Thể mạn tính: Sau giai đoạn cấp tính hay bán cấp nếu không điều trị, bệnh trở thành mãn tính với nhiều đợt bệnh cách nhau. Lúc này chức năng đại tràng không còn bình thường nữa, triệu chứng bệnh giống như viêm đại tràng mãn. Đau bụng lâm râm liên tục và rối loạn tiêu hoá: thường là tiêu chảy xen kẽ táo bón, no hơi, ăn không tiêu đối với một số thức ăn như: rau sống, sữa... bệnh nhân suy nhược, biếng ăn, sụt cân.

Điều trị

Tùy theo tình trạng bệnh, bác sĩ sẽ có phương thức điều trị bằng một hay phối hợp các loại thuốc sau:

– Émétine, thuốc diệt Amíp hữu hiệu nhưng có nhiều tác dụng phụ.

– Déhydroémétine: so với émétine thì ít độc và thải trừ nhanh hơn.

– Metronidazol và các thuốc cùng nhóm như: Secnidazole, Nimorazole, Tinidazole, Ornidazole, nhóm này không nên dùng cho phụ nữ có thai. Ngoài ra thuốc cũng có tác dụng phụ là nôn, ù tai, phát ban.

Riêng Stovarsol, Difetarsone là dẫn chất của Arsenic nên hiện nay không dùng vì độc. Phòng ngừa

Chú ý ngăn chặn Amíp theo thức ăn, nước uống xâm nhập vào cơ thể.

– Giữ vệ sinh ăn uống: Rửa tay trước khi chế biến thức ăn, dụng cụ đựng thức ăn phải sạch.

Rửa tay sau khi đi tiêu và trước khi ăn. Thức ăn phải được nấu chín kỹ trước khi ăn, nếu ăn rau sống phải rửa sạch dưới vòi nước chảy (nước máy) nhiều lần. Không uống nước lã, nước uống phải được đun sôi để nguội.

– Nước dùng trong sinh hoạt phải được khử trùng bằng clor.

– Xử lý tốt phân và rác, không dùng phân tươi để bón tưới ruộng vườn, vùng ngoại thành cần áp dụng hố xí hai ngăn. Cần dẹp các cầu tiêu trên sông, rạch vì đây là nguồn lây bệnh.

– Giữ sạch môi trường chung quanh nhà ở, tránh ruối nhặng bu vào thức ăn, ly, chén.

BS Nguyễn Trực

Bệnh lỵ trực trùng

Lỵ trực trùng là một bệnh nhiễm trùng đường ruột cấp tính do trực trùng Shigella gây ra. Biểu hiện bệnh thay đổi từ thể nhẹ: tiêu chảy phân nước cho đến các thể nặng với đau bụng quặn, mót rặn, tiêu phân đàm máu, sốt và có dấu hiệu nhiễm trùng nhiễm độc.

Người đang mắc bệnh, người trong thời kỳ bình phục (có thể truyền nhiễm đến 6 tuần), người lành mang trùng đều có thể thải vi trùng trong phân và gây bệnh cho người khác.

Shigella dễ bị tiêu diệt ở nơi khô ráo, song có thể sống lâu hàng tháng trong nước và nhiều loại thực phẩm khác nhau ở nhiệt độ thích hợp và môi trường không có tích acid mạnh. Vi trùng còn có thể xuyên qua giấy vệ sinh, nhiễm tay người bệnh và lưu lại ở tay bẩn sau nhiễm khuẩn 3 giờ. Người ta tìm thấy vi trùng hiện diện rất nhiều trên các đồ vật của người bệnh, đặc biệt là bồn vệ sinh.

Cách lây truyền thường thấy là do tiếp xúc trực tiếp giữa người với người qua tay bẩn. Yếu tố trung gian như đồ dùng chung, thực phẩm, nước (nước uống hay do tắm sông, hồ) ruồi nhặng cũng thường xảy ra.

Bệnh có khả năng gây dịch ở những nơi sống đông đúc, kém vệ sinh, nguồn nước ô nhiễm và còn tập quán dùng phân tươi bón hoa màu.

Trẻ nhỏ từ 1 đến 4 tuổi thường mắc bệnh: ở người lớn: nữ mắc bệnh nhiều hơn nam. Trực trùng Shigella xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hoá. Vi trùng sẽ bị tiêu diệt một phần khi qua môi trường acid của dạ dày, nhưng so với các loại vi trùng đường ruột khác, trực trùng lỵ dễ dàng vượt qua "hàng rào" ngăn cản này.

Triệu chứng

Sau khi vi trùng vào cơ thể từ 12 đến 72 giờ, bệnh khởi phát đột ngột với các triệu chứng sau:

– Hội chứng nhiễm trùng: Người bệnh sốt cao 39 đến 40 độ C, thường kèm theo ớn lạnh, đau nhức toàn thân, mệt mỏi biếng ăn, buồn nôn hoặc nôn mửa.

– Triệu chứng tiêu hoá: Gồm có tiêu chảy phân lỏng hoặc tiêu toàn nước vàng có thể dẫn đến rối loạn nước và chất điện giải, suy thận cấp nhưng không nguy hiểm đến tính mạng trừ khi trẻ quá nhỏ và người già.

Giai đoạn nhầy máu, nhiều lần trong ngày (có thể từ 20 đến 40 lần), lượng phân đi tiêu mỗi lần một giảm đi.

– Cảm giác mót rặn nhiều, ngày càng tăng, đau thốn ở vùng trực tràng, có thể dẫn đến sa trực tràng.

– Đau quặn bụng, đau từng cơn dọc theo khung đại tràng trước khi đi tiêu.

– Bệnh nhân chỉ sốt nhẹ trong giai đoạn này.

– Thể trạng suy sụp nhanh, mệt mỏi, hốc hác, vẻ lo lắng, môi khô, lưỡi đóng bợn vàng nâu, bụng chướng.

Những hình thức lâm sàng khác có thể gặp:

– Thể nặng cấp tính với sốt cao, lạnh run, tiêu máu ồ ạt, khô người, rối loạn nước, điện giải, suy tuần hoàn đưa đến tử vong.

– Thể nhẹ, bệnh nhân chỉ đau bụng âm ỉ, rồi tiêu phân lỏng như các trường hợp nhiễm trùng đường ruột khác.

– Thể mãn tính, bệnh nhân tiêu đàm máu kéo dài làm mất nhiều chất đạm, chất điện giải, dễ đưa đến suy kiệt.

Đối với trẻ em từ 1 đến 4 tuổi, bệnh thường cấp tính với sốt rất cao kèm co giật và có các biểu hiện thần kinh như: nằm li bì, đau đầu, cứng cổ. Một số ít trẻ em có thể tử vong do hội chứng tan máu, urê huyết cao và tình trạng huyết nhiễm nội độc tố.

Điều trị

Gồm ba biện pháp:

– Bù nước và chất điện giải: Cần được thực hiện như các trường hợp tiêu chảy khác với dung dịch Oresol uống ngay lúc bệnh mới khởi phát, hoặc truyền dịch nếu mất nước nhiều.

– Kháng sinh: Nhằm rút ngắn thời gian bệnh và thời gian thải vi trùng ra ngoài theo phân.

– Điều trị triệu chứng chỉ áp dụng khi đau quặn bụng và cảm giác mót rặn dữ dội đe doạ sa trực tràng.

Phòng bệnh

Bệnh lỵ trực tràng lây truyền chủ yếu qua đường tiêu hoá do tay bẩn, thức ăn nhiễm bẩn hay qua trung gian ruồi nhặng. Vì vậy cách phòng bệnh giống như phòng bệnh lỵ Amíp là: vệ sinh thực phẩm; vệ sinh ăn uống (ăn chín uống sôi); vệ sinh phân – rác diệt ruồi nhặng; xử lý tốt nước thải và nước sinh hoạt.

BS Nguyễn Trực

Chứng khó tiêu, đầy bụng

Khó tiêu, đầy bụng là triệu chứng cảm thấy no hơi, nặng bụng, chướng bụng, có khi buồn nôn và nôn ói. Thường xảy ra sau khi ăn và do hệ tiêu hóa hoạt động không tốt.

Để trị chứng khó tiêu đầy bụng, ta có thể dùng các thuốc sau đây:

1. Thuốc kháng acid, chống tiết acid và chống đầy hơi: Maalox Plus, Maloxals, Phosphalugel, Gasvicon, Pepsen... được dùng khi bị chứng khó tiêu, đầy hơi do dư acid dịch vị tức là chất chua trong dạ dày. Các thuốc này vừa có tác dụng trung hòa acid vừa chống đầy hơi trong dạ dày. Có thể dùng thuốc dạng sủi bọt như: Normogastryl. Hoặc dùng thuốc chống tiết acid như: Cimetidin, Ranitidin, Omeprazol...

2. Thuốc giúp điều hòa sự co bóp dạ dày như Metoclopramid (Primpéran), Domperidon (Motiliun-M). Dùng khi sự co bóp dạ dày kém, làm chậm sự chuyển hóa thức ăn từ dạ dày xuống ruột.

3. Thuốc giúp tiêu hóa: Chứa các men tiêu hóa, giúp sự tiêu hóa thức ăn ở dạ dày dễ dàng như Festal, Pancrélase, Neopeptine, Alipase...

Trên đây là các thuốc mà người bị khó tiêu đầy bụng có thể dùng để cải thiện tình trạng rối loạn. Liều lượng và cách uống có thể hỏi dược sĩ, nhân viên bán thuốc tại các nhà thuốc để được hướng dẫn dùng đúng. Có một số điều chúng ta cần lưu ý như sau:

– Nên quan tâm đến cách ăn uống để tránh chứng khó tiêu đầy bụng như ăn chậm, nhai kỹ, tạo các yếu tố thoải mái trong bữa ăn, tránh dùng các thực phẩm mà kinh nghiệm cho thấy gây chứng khó tiêu (như thức ăn chiên quá nhiều dầu mỡ) không lạm dụng rượu, cà phê, thuốc lá, gia vị gây kích thích tiết nhiều dịch vị.

– Trước khi dùng thuốc có thể dùng gừng giã nhỏ lấy nước hòa với nước âm ấm uống mà theo nhiều người nhận thấy có thể làm giảm chứng khó tiêu.

– Chỉ nên dùng thuốc khoảng 5-7 ngày, nếu chứng khó tiêu đầy bụng không cải thiện rõ rệt, nên đi bác sĩ khám bệnh.

Có một số trường hợp rất cần đi khám bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa, nếu chậm trễ trong chẩn đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến kết quả điều trị. ở người đã ngoài 45 tuổi, triệu chứng khó tiêu đầy bụng có thể khởi đầu của viêm loét dạ dày – tá tràng, thậm chí của ung thư dạ dày, hoặc ở những người có dấu hiệu sụt cân, đi tiêu phân đen, bị vàng da, nuốt khó.

DS Nguyễn Hữu Đức (Đại học Y dược TP HCM)

Táo bón

Táo bón là triệu chứng chậm trễ trong việc thải phân với phân ít hơn và khô rắn hơn bình thường, số lần thải phân không vượt quá 3 lần trong tuần. Khi bị táo bón, phân nằm lâu trong ruột sẽ làm cho chất độc thấm vào máu, gây nhiễm độc, làm cơ thể dễ bị nhiễm khuẩn phân, sẽ cản trở tuần hoàn ở trực tràng và với việc rặn khi đi tiêu sẽ làm cho người ta dễ mắc bệnh trĩ. Người bị táo bón thường cảm thấy mệt mỏi, nhức đầu, dễ tức giận, cáu kỉnh.

Nguyên nhân:

– Do ăn thiếu chất xơ là rau cải, uống quá ít nước.

– Do sinh hoạt tĩnh tại, ít có sự vận động.

– Sử dụng các loại thuốc gây ra táo bón như: thuốc trị tiêu chảy làm liệt nhu động ruột, thuốc kháng acid viêm loét dạ dày – tá tràng, thuốc bổ chứa sắt, thuốc chống trầm cảm, thuốc an thần...

Ngoài 3 nguyên nhân trên, người bệnh cũng có thể bị táo bón do cơ thể có sự rối loạn như: rối loạn tâm thần – thần kinh, rối loạn trương lực thần kinh thực vật, rối loạn chuyển hoá và nội tiết như bị chứng tăng calci – huyết, tăng urê – huyết, hoặc có một tổn thương thực thể ở đại tràng, trực tràng, hậu môn gây trở ngại đường thải phân.

Về thuốc trị táo bón hay còn gọi là thuốc nhuận trường, thuốc xổ, đó là thuốc có tác dụng làm gia tăng nước thấm vào phân làm phân mềm ra, làm gia tăng sự co thắt của ruột già để dễ dàng tống phân ra ngoài.

Có 4 loại thuốc trị táo bón như sau:

1. Thuốc trị táo bón tạo khối: Là thuốc chứa chất sợi, chất nhầy như thạch (rau câu), cám lúa mì, khi uống vào ruột sẽ hút nước trương nở lam tăng thể tích phân ở trực tràng gây sự kích thích giúp dễ đi tiêu hơn. Nên uống thuốc loại này với nhiều nước và lưu ý thuốc có thể gây chướng bụng, làm cho chán ăn không thấy đói.

2. Thuốc trị táo bón thẩm thấu: Là thuốc chứa các muối vô cơ như natri sulfat Na2SO4, gọi là thuốc xổ muối magie sulfat (MgSO4) hay chứa các loại đường như lactulose, sorbitol hoặc chất cao phân tử như forlax khi uống sẽ giữ nước trong lòng ruột giúp phân thấm nước không bị khô, dễ đi tiêu hơn.

3. Thuốc trị táo bón làm mềm phân, trơn phân: Là thuốc có chứa dầu khoáng chất như dầu paraffin, hoặc là các chất giúp nước thấm tốt vào phân như natri docusat. Lưu ý trong nhóm thuốc này có loại dùng bơm hậu môn chứa glycerol gọi là rectiol (Rectiofar) thích hợp cho trẻ con và phụ nữ có thai nhưng lưu ý không nên dùng quá thường xuyên vì: nếu bơm glycerol quá thường xuyên vào hậu môn, glycerol sẽ gây kích ứng niêm mạch trực tràng làm niêm mạch bị tổn thương.

4. Thuốc trị táo bón kích thích: Đây là thuốc phải đặc biệt lưu ý vì thuốc này có tác dụng kích thích trực tiếp trên chức năng vận động, bài tiết của ruột, làm xổ rất mạnh. Tuy nhiên phụ nữ có thai và trẻ dưới 15 tuổi không được dùng thuốc xổ loại này. Có thể kể tên một số thuốc như: Boldolaxine, Dulcolax...

Trị táo bón bằng biện pháp không dùng thuốc

– Ăn nhiều chất sợi, chất xơ, rau cải, trái cây, các loại thực phẩm "tạo khối: khoai lang, rau câu, hột é...

– Uống nhiều nước, đặc biệt nước cam, nước chanh.

– Tập đi tiêu vào giờ giấc nhất định trong ngày.

– Chống nếp sinh hoạt tĩnh tại bằng cách thường xuyên vận động, tập thể dục thể thao, đặc biệt tập các cơ vùng bụng.

Lưu ý:

– Nên xem sử dụng thuốc là bất đắc dĩ; chỉ dùng thuốc trong thời gian ngắn, tối đa là 10 ngày. Nếu thấy không khả quan nên đi khám bệnh.

– Nên chọn loại thuốc tạo khối, loại trị táo bón thẩm thấu trước, nếu không hiệu quả mới dùng đến thuốc trị táo bón kích thích (đã kể ở trên).

– Xem kỹ hướng dẫn hoặc hỏi dược sĩ về thời gian tác dụng của thuốc (có thuốc cho tác dụng sau 2-3 giờ, có thuốc phải uống chiều tối hôm trước để sáng hôm sau xổ)...

Khi nào cần thụt tháo và dùng thuốc nhuận tràng?

Thụt tháo đơn giản có thể giúp cho hết táo bón. Có thể dùng nước ấm hoặc cho thêm chút ít xà phòng vào. Tuy nhiên, thụt tháo hoặc dùng thuốc nhuận tràng sẽ hết sức nguy hiểm đối với các trường hợp:

– Người bệnh đang đau dạ dày dữ dội hoặc có bất kỳ dấu hiệu nào của viêm ruột thừa hoặc "đau bụng cấp tính", ngay cả khi người đó đã nhiều ngày không đi tiêu.

– Người bị thương do đạn bắn hoặc có chấn thương khác ở ruột.

– Người yếu sức hoặc bị ốm.

– Trẻ bị sốt cao, nôn, tiêu chảy hoặc có dấu hiệu mất nước.

Với các loại thuốc tẩy và thuốc nhuận tràng thường dùng, cần chú ý:

– Dầu thầu dầu: Là loại thuốc tẩy gây kích thích, hại nhiều hơn lợi, không nên dùng.

– Maggnesium carbonate: Là thuốc tẩy muối. Chỉ dùng với liều thấp, coi như là thuốc nhuận tràng để trị táo bón. Không dùng thường xuyên và không bao giờ dùng khi bị đau bụng.

– Dầu khoáng chất: Đôi khi có thể dùng chữa táo bón cho người bị bệnh trĩ, nhưng dầu chỉ làm trơn chứ không làm mềm phân. Trước khi đi ngủ, có thể dùng từ 3-6 muỗng cà phên dầu khoáng chất (không uống lúc ăn cơm vì dầu sẽ làm mất các vitamin trong thức ăn).

Thuốc nhuận tràng cũng giống thuốc tẩy nhưng có tác dụng yếu hơn. Những loại thuốc vừa nêu trên khi dùng với liều nhỏ thì nhuận tràng, làm mềm phân, giúp đi tiêu dễ hơn, còn dùng với liều lớn thì có tác dụng tẩy, gây tiêu lỏng. Trường hợp duy nhất phải dùng thuốc tẩy liều cao là khi uống phải chất độc và cần phải rửa ruột ngay. Trong bất kỳ trường hợp nào thuốc tẩy đều có hại.

DS Nguyễn Hữu Đức

Viêm đại tràng mạn

Là tình trạng bệnh lý gây rối loạn chức năng của đại tràng, diễn tiến kéo dài. Biểu hiện thường rất đa dạng. Thường bệnh nhân có các triệu chứng sau đây:

– Đau bụng: Đau âm ỉ khắp bụng hoặc đau quặn từng cơn ở một vùng nào trên bụng. Trong cơn đau có thể bệnh nhân thấy một khối gồ nổi lên ở bụng, chạy dọc theo khung đại tràng.

– Rối loạn về đi tiêu: Tiêu phân lỏng, tiêu nhiều lần, phân có thể có nhiều đàm nhớt, có máu; sau khi ăn muốn đi tiêu ngay, làm bệnh nhân sợ ăn; ăn cái gì đi tiêu ra cái đó; táo bón thường xuyên, hoặc bệnh diễn tiến thành từng đợt táo bón xen kẽ tiêu chảy rồi lại táo bón.

Nguyên nhân

– Nhiễm ký sinh trùng: Giun móc, giun đũa, giun kim, Amíp...

– Nhiễm trùng: Lao ruột, lỵ, trực trùng, thương hàn...

– U bướu vùng đại tràng: U lành tính đại tràng, túi thừa đại tràng, ung thư đại tràng.

– Thần kinh: Căng thẳng, lo âu kéo dài.

Khi có triệu chứng trên, các bạn nên đến bác sĩ chuyên khoa để được thăm khám và hướng dẫn làm thêm một số xét nghiệm: X quang, nội soi, thử phân... để tìm nguyên nhân thì mới có hướng điều trị thích hợp, chế độ ăn uống, nghỉ ngơi tốt, bệnh mới mau khỏi.

BS Lê Thị Tuyết Phượng

Chứng nóng thượng vị

Trước đây, nóng thượng vị được xem là triệu chứng không gây nguy hại và có nơi thường giải quyết bằng các thuốc bán không kê đơn như Tums, Rolaids. Hiện nay bệnh được quan tâm nhiều hơn. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy sự liên quan mật thiết giữa chứng nóng thượng vị và bệnh ung thư thực quản. Người thường bị nóng thượng vị có nguy cơ phát triển bệnh ung thư tuyến thực quản nhiều hơn 7 lần, nguy cơ này càng tăng nếu các triệu chứng biểu hiện nghiêm trọng, thường xuyên và kéo dài hơn; có trường hợp nguy cơ ung thư thực quản gấp 43 lần so với người không bị chứng nóng thượng vị.

Người ta chưa rõ bằng cách nào mà chứng nóng thượng vị – một triệu chứng của bệnh acid trào ngược dạ dày thực quản (GERD) đã dẫn đến ung thư thực quản. Các nhà khoa học cho rằng trong một thời gian dài nếu cơ vòng thực quản, cơ ngăn cách thực quản – dạ dày giãn ra một cách không thích hợp hoặc mất trương lực khiến cho các chất trong dạ dày dâng lên hoặc trào ngược lên thực quản sẽ gây nên hiện tượng viêm mãn tính và có thể gây nên những thay đổi không bình thường ở những tế bào bao phủ bên trong thực quản.

Dù không phải tất cả những người bị chứng nóng thượng vị sẽ bị ung thư thực quản nhưng

cũng cần lưu tâm hơn đến chứng này. Nếu bị nóng thượng vị tối thiểu 1 lần trong tuần, nhất là khi có biểu hiện nghiêm trọng hoặc kéo dài thì cần kịp thời đến khám bác sĩ.

Bác sĩ có thể cho làm nội soi. Đây là cách duy nhất giúp cho bác sĩ có thể biết sự tổn thương nếu có, ở mức độ nào. Nếu có những dấu hiệu thay đổi của tiền ung thư, bác sĩ sẽ yêu cầu tái nội sau 1 năm và nếu cần thiết sẽ lấy mẫu sinh thiết kể xét nghiệm tìm tế bào ung thư.

Thay đổi lối sống và chế độ ăn uống có thể giúp làm giảm 10% triệu chứng nóng thượng vị. Người bệnh cần lưu ý rằng cà phê, thực phẩm có chất béo có thể làm tăng sự giãn của cơ vòng thực quản và làm cho chứng nóng thượng vị dễ xảy ra. Rượu, thực phẩm có gia vị, bạc hà, cà chua và trái cây chua lại càng dễ gây chứng nóng thượng vị vì thế nên tránh hoặc giới hạn những thức ăn này. Người bệnh cũng cần thay đổi lối sống để không còn bị béo phì; từ bỏ thói quen hút thuốc lá và ăn vặt trước khi ngủ vì có quá nhiều mỡ ở ổ bụng sẽ ép dạ dày và làm thức ăn dễ trào ngược; còn hút thuốc lá sẽ làm cho các cơ thực quản giãn.

Bác sĩ cũng có thể đề nghị thay đổi một phương pháp điều trị vì chất ức chế calci hoặc thuốc trầm cảm có thể làm giãn cơ vòng thực quản và thúc đẩy sự trào ngược. Những thuốc bán không kê đơn như Tagamet HB và Zantac 75 dùng chữa chứng nóng thượng vị nhưng thực tế không chữa được chứng trào ngược acid. Hiện nay, có một loại thuốc mới không kê đơn là những chất ức chế bơm proton có thể giúp giảm sự sinh acid và chữa viêm thực quản nhưng về khả năng phòng ung thư thực quản còn chưa được thử nghiệm.

BS Tô Bích – Loan Phương

Đau dạ dày

Bệnh dạ dày do ăn uống gây nên. Quá trình mắc bệnh tương đối dài, thường trải qua vài năm, phát triển dần từ nhẹ đến nặng. Bệnh có nhiều loại, nhưng thường thấy là 3 loại: viêm dạ dày mãn tính, loét dạ dày và rối loạn chức năng thần kinh dạ dày.

– Bệnh viêm dạ dày mãn tính: Do khi ăn nhai không kỹ, ăn quá nóng, quá lạnh, quá nhiều ớt, hoặc thường xuyên hút thuốc lá, uống rượu, trà đặc... làm cho dạ dày bị kích thích rồi dần dần bị bệnh. Cũng có bệnh viêm dạ dày cấp tính, vi khuẩn hoạt động trong dạ dày, nếu kéo dài, trị không tốt sẽ thành bệnh viêm dạ dày mãn tính. Mắc bệnh này sẽ cảm thấy bụng đầy, đau từng cơn, bụng nóng, khó chịu, ợ, không muốn ăn.

– Bệnh loét dạ dày: Có liên quan với ăn uống, đời sống và tâm tính người bệnh. Người không vui có nhiều sầu muộn hoặc công tác quá căng thẳng, não không thể quản lý hoạt động dạ dày, ruột, làm cho năng lực tiêu hoá và chống đỡ của ruột, dạ dày yếu đi, khi gặp kích thích dạ dày, chịu không nổi, dễ bị tổn thương, sinh ra loét. Mắc bệnh loét dạ dày thường nóng ruột, dạ dày đau, ợ, nôn nước chua. ở mỗi người do vị trí loét trong dạ dày khác nhau nên tình hình đau cũng khác nhau. Nói chung vết loét ở trong bộ dạ dày và môn vị. Sau khi ăn khoảng 1 giờ, dạ dày trống, dịch vị kích thích, chỗ loét mới bắt đầu đau. Nếu chỗ loét ở chỗ dạ dày và ruột non nối tiếp (tức hành tá tràng) gọi là loét hành tá tràng, thường sau khi ăn ba tác động vào chỗ loét mới bắt đầu đau. Trong hai tình huống này, dạ dày đau đều theo quy luật nhất định.

– Rối loạn chức năng thần kinh dạ dày: Bản thân dạ dày chẳng có bệnh gì, chủ yếu do tâm trạng không ổn định, ảnh hưởng tới thần kinh, chi phối dạ dày. Nếu kéo dài có thể phát triển thành viêm dạ dày mãn tính hay loét dạ dày. Triệu chứng bệnh này có lúc gần như triệu chứng viêm hoặc loét dạ dày.

Để phòng chống bệnh dạ dày, cần tránh những nguyên nhân gây bệnh. Dùng thuốc chỉ có tác dụng phụ trợ. Cuối cùng, người có bệnh dạ dày nếu phát hiện đại tiện phân đen hoặc nôn ra nhiều máu bầm đen, có thể là vết loét, xuất huyết có lúc đau bụng dữ dội, da bụng cứng – có thể vét loét dạ dày bị thủng. Hai triệu chứng này đều rất nguy trọng phải đến ngay bệnh viện. Với người trên 40 tuổi, nếu gầy đi nhanh, lại chán ăn có thể bị u ác tính, cần kiểm tra và trị liệu sớm.

BS Lý Kiên

Bệnh khớp kéo theo bệnh dạ dày

Các tổn thương viêm loét dạ dày, tá tràng thường gặp ở các bệnh nhân bị viêm khớp mãn tính. Đây là biểu hiện của những biến chứng rất thường gặp của việc điều trị và là nguyên nhân chính làm tăng số ngày nằm viện, tăng tỷ lệ tử vong của nhóm bệnh này. Đó là kết quả tất yếu của việc điều trị các bệnh xương khớp chỉ nặng về chữa triệu chứng đơn thuần mà không quan tâm đến điều trị tận gốc của bệnh. Khi có các tổn thương dạ dày, tá tràng, việc điều trị các bệnh xương khớp gặp nhiều khó khăn, người bệnh có nguy cơ bị các biến chứng nặng, có khi gây tử vong.

Tại sao người bị bệnh về xương khớp mãn tính lại hay bị đau dạ dày?

Các bệnh về xương khớp mãn tính thường kéo dài từ vài ba năm đến vài chục năm. Các thuốc giảm đau và chống viêm luôn là bạn đồng hành của người bệnh. Các thuốc này gồm các loại Corticosteroid và loại thuốc chống viêm không phải là Steroid (NSAIDS) đã và đang được dùng rất rộng rãi để điều trị các chứng sưng, nóng đỏ, đau của bệnh, nhưng chỉ là các thuốc điều trị triệu chứng đơn thuần. Nhiều người (kể cả một số thầy thuốc) đã rất sai lầm khi cho rằng đây là những thuốc đầu tay và duy nhất trong điều trị các bệnh xương khớp. Các thuốc nói trên đều ảnh hưởng tới dạ dày, tá tràng. Tỷ lệ, mức độ ảnh hưởng phụ thuộc vào thời gian, liều dùng, cách phối hợp thuốc, thói quen sinh hoạt (uống rượu, hút thuốc lá...), tuổi tác và tình trạng sức khỏe của người bệnh.

Cơ chế ảnh hưởng lên dạ dày của thuốc chống viêm và giảm đau là cơ chế ức chế Prostaglandin. Prostaglandin là một chất trung gian có tác dụng ức chế quá trình viêm, nhưng lại kích thích Mucin – một yếu tố bảo vệ niêm mạc dạ dày và tá tràng. Khi Prostaglandin giúp ức chế các hiện tượng sưng, đau, xung huyết của bệnh khớp thì đồng thời làm mất dần yếu tố bảo vệ, gây viêm loét dạ dày và tá tràng. Thực tế cho thấy, nhiều loại thuốc chống viêm và giảm đau khác đã được cải tiến hơn nhưng không có loại thuốc nào thực sự an toàn, không để lại hậu quả khác cho người bệnh.

Vì các thuốc chống viêm, giảm đau chỉ là thuốc chữa triệu chứng nên quá trình viêm chỉ được ức chế tạm thời. Nếu không có các biện pháp điều trị khác hiệu quả hơn khắc phục nguyên nhân gây viêm, quá trình viêm sẽ tiếp diễn và nhanh chóng dẫn đến hiện tượng hủy hoại khớp. Lúc đó, thuốc chống viêm và giảm đau không còn tác dụng, mà người bệnh lại xuất hiện các biến chứng của thuốc ở dạ dày và tá tràng. Điều đáng chú ý là 50% các tổn thương ở dạ dày tá tràng do thuốc kháng viêm và giảm đau gây nên lại không có triệu chứng lâm sàng và thường phát hiện được bằng phương pháp chụp X quang dạ dày. Biện pháp hữu hiệu nhất là nội soi bằng ống mềm.

Biện pháp ngăn chặn tổn thương dạ dày ở người bị khớp mãn tính

– Những người bị bệnh xương khớp kéo dài và tái đi tái lại cần tới các cơ sở chuyên khoa để được khám càng sớm càng tốt.

– Việc điều trị phải toàn diện và cần được theo dõi sát, điều trị triệu chứng kết hợp với điều trị căn nguyên của bệnh.

– Trong quá trình điều trị, người bệnh cần được kiểm tra kỹ hệ thống tiêu hoá. Nếu có tổn thương phải điều trị tích cực, kịp thời.

– Người bệnh không được tự ý tiêm, uống thuốc giảm đau và chống viêm hoặc kéo dài thời gian uống thuốc. Không dùng toa thuốc cũ mỗi khi đau tái phát. Các thuốc chống viêm và giảm đau phải dùng trong hoặc ngay sau bữa ăn để tránh tác dụng phụ của nó đối với dạ dày, tá tràng.

– Cần thông báo ngay cho bác sĩ điều trị khi có dấu hiệu: khó tiêu, chán ăn, ói mửa, nóng rát dạ dày, chảy máu dạ dày (ói ra máu)...

BS Lê Anh Thư (Bệnh viện Chợ Rẫy)

Chảy máu đường tiêu hoá

Chảy máu đường tiêu hoá là một bệnh lý cấp cứu, là biến chứng nguy hiểm của nhiều bệnh. Biểu hiện của chảy máu tiêu hoá là bệnh nhân ói ra máu (máu đỏ tươi, máu bầm) và đi cầu phân có máu.

Nguyên nhân

Nguyên nhân ở thực quản: Giãn vỡ tĩnh mạch thực quản (thường gặp ở bệnh nhân xơ gan), thoát vị hoành; hội chứng Mallory Weiss: bệnh nhân sau khi ói mửa nhiều cuối cùng nôn ra máu, nội soi thấy rách niêm mạc phần trên dạ dày.

Nguyên nhân ở dạ dày, tá tràng: Viêm dạ dày; loét dạ dày; ung thư dạ dày; túi thừa tá tràng.

Nguyên nhân ở gan, mật, tuỵ: Xơ gan, sỏi mật; ung thư mật; viêm tuỵ cấp.

Nguyên nhân ở ruột: U đại tràng và ung thư đại tràng; viêm ruột xuất huyết; kiết lỵ, thương hàn; lao ruột; lồng ruột cấp tính; trĩ.

Nguyên nhân ở các cơ quan khác của cơ thể: Sốt xuất huyết, sốt rét; các bệnh lý về máu do stress; do một vài thứ thuốc gây nên như thuốc kháng viêm Aspirine...

BS Lê Thị Tuyết Phượng

Bệnh giun móc

Nhiễm giun móc là bệnh lây truyền qua đất, khá phổ biến ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. ở Việt Nam tỷ lệ nhiễm giun khá cao và dao động tùy theo tập quán canh tác, điều kiện vệ sinh và thổ nhưỡng từng vùng.

Hai loại giun móc ký sinh và trưởng thành ở người là Ancylostoma duodenale và Necator americanus, đều có hình trứng, khá giống nhau cả về đặc điểm dịch tễ, bệnh học và sinh học. Giun móc sống ở tá tràng, hỗng tràng. Con cái mỗi ngày đẻ 5.000 – 20.000 trứng. Trứng theo phân người ra ngoài, nở thành ấu trùng và phát triển ở đất. Sau 5 ngày sẽ thành ấu trùng chỉ, chủ động tìm đến người theo hơi nóng, chui qua da để vào cơ thể. Nhiễm N.americanus đều theo cách này, còn A.duodenale thì có thể nhiễm qua đường miệng do ăn phải ấu trùng chỉ có trong nước hoặc rau sống. Sau khi vào cơ thể, ấu trùng theo máu lên phổi, qua khí, phế quản lên hầu rối xuống dạ dày, khi đến ruột non sẽ thành giun trưởng thành. Từ khi ấu trùng xuyên qua da đến khi thành giun trưởng thành có thể đẻ trứng là 6-8 tuần.

Tình hình nhiễm giun của người Việt Nam

– Tỷ lệ nhiễm giun ở từng vùng rất khác nhau, cao nhất ở vùng ven biển (67-68%) rồi đến trung du (61-64%), vùng núi (51%), cao nguyên (47%) và đồng bằng (30-60%).

– Cường độ nhiễm giun móc nhìn chung không cao. Các vùng được điều tra trung bình một

người lớn có khoảng 112 con và trẻ em có khoảng 10 – 32 con; 50-71% nhiễm giun móc đồng thời với các loại giun khác, thường là giun đũa và giun tóc.

– Tình trạng tái nhiễm thấp (4,4%, so với bệnh giun đũa là 68%).

– Tỷ lệ nhiễm tăng dần theo tuổi. Lứa tuổi dưới 16 chưa có sự phân công lao động rõ rệt tỷ lệ nhiễm không khác biệt giữa nam và nữ nhưng lứa tuổi trên 16, nữ thường làm các công việc tiếp xúc nhiều với mầm bệnh như chăm bón lúa và hoa màu ở ruộng, vườn... nên tỷ lệ nhiễm cao hơn (78% so với 59%).

– Nghề nghiệp có ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm giun móc; trong cùng một điểm điều tra, nông dân nhiễm nhiều hơn ngư dân, người trồng rau nhiễm nhiều hơn người trồng lúa.

Tác hại của giun móc

– Ấu trùng gây viêm da nới nó xuyên qua hoặc viêm phổi dị ứng khi qua phổi.

– Giun trưởng thành có thể gây kích thích hoặc tổn thương nhẹ thành ruột do chất tiết của giun tiết ra hoặc do giun thúc vào thành ruột. Ngoài ra, có thể làm cho thành ruột viêm, chảy máu, tạo thành những nốt sùi và sẹo, hạch mạch treo có thể bội nhiễm vi khuẩn; nhiều cơ quan khác có thể bị ảnh hưởng như gan bị thoái hoá mỡ, tủy và lách bị tổn thương, phổi bị phù hoặc viêm phế nang, tim to và nhẽo, nhiều chỉ số của máu như lượng hồng cầu, bạch cầu, tốc độ lắng máu tỷ lệ huyết cầu tố... bị thay đổi.

Triệu chứng

– Rối loạn tiêu hoá: Đau vùng thượng vị, đau tăng sau khi ăn kèm theo cảm giác cồn cào, chán ăn, ợ, nôn, đầy và chướng bụng. Có thể tiêu chảy, táo bón hoặc tiêu ra máu.

– Rối loạn tuần hoàn, thiếu máu: Da xanh, niêm mạch nhợt, khó thở, mạch nhanh, đánh trống ngực, hay chóng mặt, ù tai; nặng hơn có thể chảy máu cam, rong kinh, vô kinh ở phụ nữ, tim to, phù nề.

– Rối loạn thần kinh: Giảm tính cường cơ, giảm thị lực, nhức đầu, dễ quên, suy nhược; nặng hơn có thể giảm hoặc mất phản xạ, cơ thể bị tê liệt bất thường. Trẻ em chậm lớn, chậm phát triển trí óc...

Nếu không can thiệp, các triệu chứng sẽ tăng dần, bệnh nhân gầy mòn, phù thũng, có thể chết vì kiệt sức hoặc các bệnh khác phối hợp.

Điều trị

– Dùng liều duy nhất với hiệu quả cao. Những thuốc mới có nhiều tính ưu việt hiện nay thuộc nhóm Benzimidazole và Pyrimidin. Lưu ý: nhóm Benzimidazole đôi khi gây hiện tượng giun di chuyển ngược lên miệng; phụ nữ có thai 3 tháng đầu không dùng Albendazole và Mebendazole (thuộc nhóm Benzimidazole vì thử nghiệm trên chuột thấy có gây dị thường ở bào thai); đôi khi thuốc có tác dụng phụ gây những triệu chứng thoảng qua như chóng mặt, đau bụng...

– Dùng thuốc rẻ tiền, ít độc, không chỉ có tác dụng với giun móc mà còn có tác dụng với các loại giun khác.

– Bồi phụ sắt trong 3 tháng và truyền máu khi cần thiết.

Phòng ngừa

– Điều trị người bệnh để cắt đứt nguồn lây nhiễm.

– Vệ sinh môi trường, chống phát tán mầm bệnh: Nhà phải có hố xí, không phóng uế bừa bãi, không dùng phân chưa ủ kỹ để bón, không để chó, gà, heo tha phân gây ô nhiễm môi trường.

– Giáo dục y tế nâng cao kiến thức về bệnh giun móc, nâng cao ý thức phòng bệnh, chống lây nhiễm và bảo vệ người chưa mắc bệnh: không ăn rau sống chưa rửa kỹ và sạch, không uống nước lã, rửa sạch tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, không đi chân không...

BS Phan Thị Kim (Viện Dinh dưỡng)

Bệnh giun đầu gai

Thời gian gần đây, có nhiều trường hợp bệnh nhân nhập viện là những người thường xuyên ăn đồ tái sống. Đã có bệnh nhân do ăn cá nhúng giấm, gỏi cá, cá lóc nướng trui, mắm Thái,... sau đó xuất hiện nhiều triệu chứng đau bụng, buồn nôn, sốt. Đặc biệt là sự xuất hiện kỳ lạ của nhiều khối u di động khắp nơi trong cơ thể, thường tập trung ở mặt, miệng và tay chân. Thủ phạm gây ra những triệu chứng đáng sợ như vậy? Chính là giun đầu gai.

Loại giun này có tên khoa học là Gnastostoma spinigerum, sống chủ yếu ở các động vật như chó, mèo... Người chỉ là ký chủ trung gian mang ấu trùng hoặc giun non, chúng di chuyển dưới da và cơ quan nội tạng của người để gây bệnh. Giun đầu gai trưởng thành, con đực dài 11– 25 mm, con cái dài 25-54 mm, thân mình được bao phủ bởi các gai ở phía trước, đầu phình to có 4-8 hàng móc, do đó giun được gọi là giun đầu gai.

Giun trưởng thành sống ở vách bao tử của các động vật ăn thịt sống như chó, mèo, chim, chúng đẻ trứng ở đây và sau đó trứng theo phân của các động vật này đi ra ngoài. Phân ở môi trường ngoài sẽ bị các lăng quăng đỏ nuốt vào và biến thành ấu trùng. Sau đó lăng quăng đỏ bị cá, tôm, ếch, lươn, rắn... nuốt, chúng phát triển ở cơ bắp các động vật này trở thành ấu trùng giai đoạn 3. Nếu người ăn gặp các ấu trùng giai đoạn 3 này mà không được nấu chín, khi vào dạ dày những ấu trùng này do có tính di động rất cao sẽ chui qua vách dạ dày và đi lang thang khắp nơi trong cơ thể như da, gan, phổi, mắt, nguy hiểm nhất là ở não. Đi đến đâu, đầu và mình nhiều gai của giun tiết dịch gây viêm, hoại tử, xuất huyết ở vùng đó, bệnh nhân sẽ có những cơn đau nhói, đau như xé thịt ở các cơ quan tương ứng.

Giun đầu gai hay gặp ở Đông Nam á và các vùng lân cận. Đặc biệt ở miền Nam nước ta hay bị nhiễm giun do ăn những món ăn đặc sản như cá lóc nướng trui, mắm Thái...

Biểu hiện bệnh của giun rất đa dạng, tùy thuộc cơ quan nào mà giun đi ngang qua. Khi giun từ dạ dày xuyên qua vách dạ dày đi đến:

– Gan: Gây sốt, đau vùng gan dễ chẩn đoán nhầm với viêm gan, Abces gan...

– Bụng: Gây đau bụng, rối loạn tiêu hoá đôi khi rất dữ dội có thể nhầm với cơn đau bụng cấp tính, nguy kịch, nhầm với triệu chứng của bệnh loét dạ dày tá tràng, viêm tuỵ cấp...

– Mắt: Gây viêm mống mắt, viêm màng bồ đào, xuất huyết trong mắt. Biểu hiện lâm sàng là tình trạng đau nhức trong mắt, mắt viêm đỏ, mí mắt sưng phù.. Đã có bệnh nhân đến bệnh viện khám vì các triệu chứng ở mắt và được bác sĩ gắp ra từ mắt một con giun đầu gai.

– Da: Thường biểu hiện bằng nhiều khối u di động dưới da, đôi khi sưng phù và đỏ ở nhiều vùng da dễ lầm với dị ứng da, dẫn đến sai lầm trong vấn đề điều trị, kéo dài thêm tình trạng bệnh.

– Phổi: Gây viêm phổi, tràn dịch màng phổi...

– Rối loạn thần kinh: Gây nhức đầu, khó tập trung, hay quên...

– Tủy sống: Gây viêm tủy có thể dẫn đến liệt tứ chi.

– Não: Gây viêm não, xuất huyết não, có thể làm tàn phế hoặc tử vong người bệnh.

Những triệu chứng này có những đợt bùng phát, có những lúc lắng dịu và kéo dài trong cơ thể.

Khi có những triệu chứng nghi ngờ kể trên, đặc biệt ở những đối tượng có yếu tố nguy cơ cao như thường xuyên ăn đồ thủy hải sản tái sống, cần đến khám tại cơ sở y tế chuyên khoa. Tại đây bác sĩ sẽ thăm khám kết hợp với các xét nghiệm để định bệnh.

Hiện nay việc điều trị tương đối hữu hiệu nhất là phát hiện để rạch và gắp giun ra từ các vùng trong cơ thể. Tuy nhiên, để định vị được nơi giun trú ngụ là điều không phải lúc nào cũng dễ dàng. Đồng thời do đặc tính rất di động của giun, đôi lúc gây khó khăn cho việc điều trị.

Để phòng ngừa nhiễm giun đầu gai, cần lưu ý các vấn đề sau đây: Nên ăn thực phẩm được nấu chín (đặc biệt các loại thủy hải sản như tôm, cá, rắn, lươn...); nếu cần phải ăn những món ăn tái sống thì phải ngâm thức ăn vào giấm đậm đặc từ 5 tiếng rưỡi trở lên; thật cẩn thận khi ăn những món ăn có nhiều nguy cơ: mắm Thái, gỏi cá, cá lóc nướng trui...; quản lý, không để chó, mèo... đi tiêu bừa bãi; không nên dùng phân tươi làm phân bón; tiêu diệt lăng quăng đỏ.

BS Lê Thị Tuyết Phượng

Bệnh trĩ

Có thể hiểu đơn giản là trĩ hình thành do sự giãn quá mức của các đám rối tĩnh mạch trĩ (ĐRTMT). Dù bệnh trĩ đã được biết từ lâu nhưng hiện nay y học vẫn chưa tường tận về bệnh nguyên và bệnh sinh. Tuy nhiên, một số yếu tố sau đây có thể tạo thuận lợi cho việc phát sinh bệnh:

– Áp lực trong ổ bụng tăng trong trường hợp ho nhiều do viêm phế quản mãn hoặc khuân vác, lao động nặng...

– Phải rặn nhiều khi đi tiêu do viêm đại tràng mãn hay táo bón kinh niên khiến áp lực trong ống hâụ môn tăng lên nhiều.

– Đứng lâu, ngồi nhiều cũng dễ bị trĩ do áp lực tĩnh mạch trĩ khi đứng tăng gấp ba lần so với khi nằm.

– Do u bướu vùng tiểu khung, u trực tràng hoặc do thai lớn tháng... có thể chẹn tĩnh mạch làm cản trở máu tĩnh mạch hồi lưu.

Triệu chứng

– Chảy máu trực tràng: Có vệt máu đỏ ở phân hoặc máu chảy nhỏ giọt hay thành tia khi đi tiêu. Khi bệnh nặng hơn, chỉ ngồi xổm là máu đã chảy ra, có khi máu chảy nhiều quá phải đi cấp cứu.

– Sa trĩ: Nếu sa trĩ từ độ 3 trở lên thì bệnh nhân rất khó chịu trong sinh hoạt.

Ngoài ra, một số bệnh nhân còn có cảm giác đau và nóng rát ở hậu môn, do bệnh đã có biến chứng như tắc mạch do huyết khối, sa và nghẹt búi trĩ, búi trĩ bị nhiễm trùng...

Một số bệnh nhân có thể gây chẩn đoán nhầm như ung thư trực tràng, viêm loét đại trực tràng, sa trực tràng, Polip đại trực tràng (có thịt dư ở đại trực tràng). Vì thế để chẩn đoán đúng bệnh, ngoài việc thăm khám trực tràng, bác sĩ sẽ cho làm nội soi hậu môn trực tràng hoặc X-quang đại tràng cản quang.

Trĩ được phân loại thành trĩ nội, trĩ ngoại:

– Trĩ nội nằm trong ống hậu môn, khi to ra sẽ sa ra ngoài và phân thành 4 độ: 1, 2, 3 và 4.

– Trĩ ngoại thì nằm ngoài ống hậu môn.

Ngoài ra còn có trường hợp trĩ hỗn hợp, là trĩ nội và trĩ ngoại liên kết với nhau. Tùy theo loại trĩ và độ sa trĩ bác sĩ sẽ chỉ định điều trị cụ thể; đối với trĩ ngoại, bác sĩ chỉ điều trị bằng thủ thuật hay phẫu thuật khi có biến chứng.

– Về điều trị nội khoa: Bác sĩ cho bệnh nhân dùng các loại thuốc làm tăng trương lực thành mạch, chống phù, chống viêm và giảm đau; nên dùng thức ăn dễ tiêu chống táo bón, tránh chất kích thích và các gia vị như ớt, tiêu, mù tạc...; tránh làm những công việc quá nặng nhọc và những công việc phải đứng lâu, ngồi nhiều; ngoài ra cũng cần điều trị những bệnh khác như viêm đại tràng, viêm phế quản...

– Về điều trị ngoại khoa: Có thể áp dụng các phương pháp sau:

+ Chích chất gây xơ vào gốc búi trĩ để làm xơ các tĩnh mạch. áp dụng phương pháp này không khéo có thể chích vào lớp cơ, dễ gây hoại tử và dễ nhiễm trùng nặng nếu không bảo đảm vô trùng.

+ Dùng tia hồng ngoại, dao diện... để làm đông búi trĩ bằng nhiệt hoặc dùng nitơ lỏng để làm đông bằng lạnh. Búi trĩ sẽ hoại tử vô trùng và rụng đi.

+ Thắt trĩ bằng dây thun: Búi trĩ hoại tử dần rồi rụng đi.

+ Phẫu thuật cắt trĩ nếu các búi trĩ sa quá lớn.

Phương pháp thắt trĩ bằng dây thun

Thắt trĩ bằng dây thun là phương pháp khá mới và có nhiều tiện lợi, hiện đang rất thịnh hành ở Pháp và cho kết quả tốt nhất. ở Việt Nam, các bác sĩ đã điều trị rất thành công cho nhiều bệnh nhân, chưa có trường hợp nào xảy ra tai biến. Với bộ dụng cụ đặc biệt, chưa có trường hợp nào xảy ra tai biến. Với bộ dụng cụ đặc biệt, bác sĩ kéo búi trĩ ra rồi thắt dây thun ở gốc, búi trĩ thiếu máu nuôi dưỡng sẽ hoại tử dân rồi rụng đi. Ưu điểm của phương pháp này là thời gian điều trị rất ngắn, trung bình 5phút/ca, sau đó bệnh nhân có thể ra về ngay và vài ngày sau búi trĩ sẽ rụng.

Phòng ngừa

– Cần chú ý đến chế độ ăn uống. Tránh dùng nhiều thức ăn dễ gây kích thích và táo bón như: tiêu, ớt, hay gia vị có tính cay nóng – Không nên uống quá nhiều cà phê, rượu, tránh thuốc lá...

Nên ăn các loại thức ăn có nhiều chất xơ (các loại rau), uống nhiều nước mát (atisô, rau má...)

– Tránh làm việc trong một tư thế kéo dài như ngồi, đứng lâu. Cần có chế độ thể dục vận động trong thời gian nghỉ giữa giờ nếu phải ngồi hoặc đứng lâu. Không nên khiêng nặng quá sức, hoặc sử dụng đến những động tác gồng, rặn quá nhiều.

– Người bình thường và cả người có bệnh trĩ sau khi đi cầu không nên dùng giấy báo để làm sạch, tốt nhất là dùng nước.

– Điều trị triệt để những bệnh có khả năng gây trĩ.

– Vận động thể dục thể thao sẽ giúp điều hoà nhu động co giãn ở ruột, giúp tiêu hoá tốt (ít vận động, nằm nhiều cũng dễ có nguy cơ gây táo bón là một nguyên nhân sinh bệnh trĩ).

– Sau cùng là đối với phụ nữ, việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch cũng góp phần vào việc phòng tránh được nguy cơ gây bệnh trĩ.

BS Lê Văn Đương, Thái Hiệp


Từ Khóa:

Các bệnh đường tiêu hoá || Cẩm nang sức khỏe gia đình || Mẹo vặt trong cuộc sống hàng ngày ||


Quảng cáo: Trái cây sấy xuất khẩu sỉ và lẻ

Xem thêm Cẩm nang sức khỏe gia đình

Bệnh răng miệng

Bệnh về da và tóc

Các bệnh xương khớp

Các bệnh về hệ tuần hoàn

Bệnh về gan

Lao và các bệnh hệ hô hấp

Bệnh về đường tiết niệu

Các loại sốt thông thường

Phòng và trị bệnh ung thư

Trà Hoa Thảo Mộc Đà Lạt

Tìm kiếm

Nông Sản Sạch



Kẹo Xoài




Xoài Sấy Dẻo