Trà Hoa Thảo Mộc



Táo đỏ Tân Cương




Trà Hoa Hồng



Cẩm nang sức khỏe gia đình

Bệnh về da và tóc

Bệnh ghẻ

Là một trong những bệnh ngoài da tương đối phổ biến. Ở những khu tập thể diện tích chật chội và đông người, vệ sinh, dinh dưỡng kém có khi tỷ lệ mắc bệnh lên hơn 80%.

Bệnh ghẻ gây ngứa dữ dội, bệnh nhân gãi nhiều dễ gây viêm da, nhiễm khuẩn, ảnh hưởng đến sinh hoạt, sức khỏe, năng suất lao động, nhất là trạng thái tinh thần. Một số bệnh khác khi có ghẻ kèm theo sẽ thêm phức tạp trong diễn biến và điều trị (sốt rét, chấn thương, bệnh mạn tính). Đối với thanh niên, trẻ em, cần đề phòng biến chứng, viêm cầu thận cấp.

Bệnh do cái ghẻ có chửa gây nên (ghẻ đực không gây bệnh và thường chết sau khi giao hợp). Cái ghẻ có tên khoa học là Sarcopte Scabieihminis, hình tròn dẹt, nhìn mắt thường như một điểm trắng di động, sống khoảng 3 tháng, mỗi ngày đẻ 1– 5 trứng. Sau khi đẻ 8– 10 ngày, trứng nở thành ấu trùng và sau nhiều lần lột xác, nó thành ghẻ trưởng thành (khoảng 22 ngày). Ghẻ sinh sôi nảy nở rất nhanh, sau 3 tháng đã có một dòng họ khoảng 150 triệu con. Lúc bệnh nhân bắt đầu đắp chăn đi ngủ, cái ghẻ bò ra khỏi hang để tìm đực; đây chính là lúc ngứa nhất và dễ lây truyền nhất. Bệnh nhân gãi làm vương vãi cái ghẻ ra quần áo, giường chiếu. Trong quần áo ấm, cái ghẻ có thể sống được 7 ngày.

Bệnh ghẻ lây chủ yếu do ban đêm nằm chung giường chung chăn, rất ít lây do tiếp xúc ban ngày. Có thể diệt cái ghẻ bằng nhiệt độ cao, ánh sáng, nước sôi hoặc một số hoá chất đặc hiệu.

Thời gian ủ bệnh là 5-10 ngày. Đến khi bệnh toàn phát, có thể dựa vào các yếu tố sau để chẩn đoán:

– Tổn thương đặc hiệu của ghẻ là luống ghẻ và mụn trai (còn gọi là đường hang và mụn nước). Luống ghẻ là một đường gồ cao hơn mặt da, cong hoặc hơi vằn vèo, màu trắng đục, không ăn khớp với hằn da, ở đầu có một mụn nước nhỏ bằng đầu đinh ghim. Đây là đường hang mà cái ghẻ đào ở lớp sừng, mụn nước là nơi khu trú của cái ghẻ.

– Vị trí đặc biệt ưa thích của cái ghẻ là lòng bàn tay, ngấn cổ tay, kẽ tay, rìa ngón chân, cùi tay, bờ trước nách, quanh rốn, đầu vú phụ nữ, qui đầu và thân qui đầu; gót chân và lòng bàn chân trẻ còn bú. Ít khi gặp tổn thương đặc hiệu của ghẻ ở cổ, mặt, lưng. Đối với nam giới, nhiều khi ở lòng bàn tay, kẽ tay không có tổn thương nhưng ở qui đầu và thân qui đầu hầu như trường hợp nào cũng có.

– Rải rác trên da có nhiều vết xước, sần trợt, sẩn vảy, mụn mủ, nhọt, mụn nước, kiểu viêm da, eczema sẫm màu... Do chà xát, bôi thuốc linh tinh nên bệnh nhân gặp biến chứng viêm da ở vùng hai bên hông, đùi, bẹn, nách và tổn thương nhiễm khuẩn ở lòng bàn tay, kẽ tay, mông. Trẻ em dễ kèm tổn thương chốc đầu, eczema hai má, viêm quanh móng tay, nổi hạch. Những tổn thương thứ phát viêm da, nhiễm khuẩn, chàm hoá thường che lấp tổn thương đặc hiệu, phải khám kỹ mới thấy.

Ngoài ra, còn có các biểu hiện: ngứa nhiều lúc đắp chăn đi ngủ; trong gia đình hoặc tập thể có nhiều người bệnh tương tự; bắt được cái ghẻ ở đầu luống ghẻ.

Tuy nhiên, cần phân biệt ghẻ với viêm da gây ngứa, tiếp xúc với các loại lá ngứa, nước ô nhiễm; sẩn ngứa do côn trùng (ruồi vàng, bọ chét, rệp...); Dysidrose lòng bàn tay.

Cần phát hiện và điều trị sớm ngay từ khi ghẻ còn giản đơn, lẻ tẻ trong tập thể. Điều trị hàng loạt cùng lúc tất cả những người cùng bị, tránh lây nhiễm cho nhau. Điều trị liên tục, triệt để ít nhất 10-15 ngày, sau đó theo dõi tái phát 10-15 ngày nữa, đề phòng có đợt trứng mới nở. Bôi thuốc vào buổi tối trước khi đi ngủ, bôi rộng kiểu quang dầu bao vây toàn bộ vùng có tổn thương ghẻ. Bôi 2-3 tối liền, sau đó mới tắm (khi tắm, tránh chà xát kẻo gây thương tổn thêm cho da). Kết hợp điều trị với thực hiện qui chế phòng bệnh cá nhân và tập thể, cắt móng tay, giặt luộc quần áo, tổng vệ sinh giường chiếu, tránh lây lan từ người bị ghẻ.

Đối với ghẻ giản đơn:

– Dùng một trong các loại thuốc như Licovenminh, mỡ diêm sinh 10%-30%, dầu Benzin benzoat 30%, mỡ Baume de perou, dầu DEP (diethylphtalat), mỡ Kwell, bôi mỗi tối trước khi đi ngủ, từng đợt 2-3 tối liền.

– Xoa bột Lindan 1% hai tối liền, cách 5 ngày sau, nếu cần xoa thêm hai tối nữa. Hoặc dùng phương pháp Demiamovitch: Bôi dung dịch Hyposulfit Natri 30% để 3 phút rồi bôi tiếp dung dịch HCl 3% đè lên. Bôi 5-7 tối liền (tuy nhiên nhớ đề phòng viêm da kích ứng). Hoặc dùng phương pháp Diakova: xà phòng giặt 50 g, bột diêm sinh 125 g, nước cất 350 g, hoà thành dung dịch bôi ngày hai lần sáng và tối. Bôi 3 ngày liền, sau đó tắm và thay quần áo.

Đối với ghẻ viêm da:

– Với các đám viêm da, bôi dầu kẽm, hồ nước, Oxycort. Các vùng có tổn thương ghẻ bôi dầu benzin Benzoat, dầu DEP.

Đối với ghẻ nhiễm khuẩn:

– Các tổn thương viêm da mủ: Bôi thuốc màu, mỡ kháng sinh; buổi tối bôi thuốc ghẻ. Nếu cần, kết hợp cho kháng sinh chung (Tetra, Penicilin) trong 1-10 ngày. Nếu có viêm cầu thận cấp, cần chuyển điều trị tại khoa nội hoặc khoa nhi.

Ngoài ra, nếu ngứa nhiều trong 5-7 ngày đầu, cho thêm thuốc an thần, chống ngứa (Siro an thần, kháng histamin tổng hợp, Sedusen). Nếu kèm suy nhược cơ thể thì tăng cường dinh dưỡng vitamin.

Có thể kết hợp chữa thuốc Nam như tắm các loại lá đắng (lá ba chạc, chân chim, lá xoan, lá nhãn...) lá có tinh dầu thơm (cúc tần, bạch đàn, bôi dầu mù, dầu hạt máu chó, cặn dầu tràm...).

Chú ý: Tránh dùng các loại thuốc có độc tính cao: mã tiền, hạt củ đậu, bột 666, TNT, Vifatox...

BS Duy Lợi Hiền

Bệnh giời leo (Zona)

Bệnh giời leo còn gọi là zona, do virus varicella-zoster (VZV) gây ra. Đây cũng là viaus gây ra bệnh trái rạ (giời leo là một biến chứng của bệnh trái rạ). Bệnh giời leo thường xảy ra ở người lớn tuối, ít gặp ở trẻ con. Virus này sống tiềm ẩn nhiều năm ở mô thần kinh trong cơ thể, khi gặp các điều kiện thuận lợi nó sẽ hoạt động trở lại gây ra giời leo.

Ở người lớn tuổi, do hệ miễn dịch suy yếu đối với virus VZV nên những người tuổi trên 50 thường gặp phải bệnh giời leo. Ngoài ra, các yếu tố khác làm ảnh hưởng đến hệ miễn dịch của cơ thể cũng làm tăng nguy cơ phát bệnh giời leo. Các yếu tố này có thể là: ung thư, nhiễm HIV, căng thẳng (stress), phẫu thuật, xạ trị và hoá trị trong ung thư.

Hầu hết bệnh nhân bị giời leo cấp tính đều cảm thấy đau nhức. Đau xuất hiện trước khi nổi bóng nước trong 80% trường hợp, và đau ở vùng mà dây thần kinh chi phối. Vài ngày sau cơn đau sẽ xuất hiện các bóng nước trên vùng đó. Các bóng nước kéo dài trong khoảng 7 ngày, nhưng cơn đau thì có thể tồn tại lâu hơn nhiều.

Vị trí xuất hiện các bóng nước: Phần lớn các trường hợp giời leo xảy ra ở vùng xương sườn (50-56%); vị trí thường gặp khác là vùng mặt, có thể liên quan đến mắt gây mù mắt.

Các biến chứng của giời leo:

– Đau sau giời leo: Ít gặp ở người trẻ tuổi, nhưng đặc biệt nghiêm trọng ở người trên 60 tuổi với khoảng 40% trường hợp. Cơn đau có thể rất dữ dội và kéo dài trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. Đôi khi ngay cả các thuốc giảm đau mạnh nhất cũng không làm giảm cơn đau. Chỉ khi nào cắt dây thần kinh cảm giác chi phối vùng đau thì cơn đau mới giảm.

– Viêm não và viêm phổi là các biến chứng ít gặp khác của giời leo.

Điều trị:

– Vệ sinh sạch sẽ.

– Dùng Acyclovir (uống) sẽ làm lành tổn thương và giảm đau nhanh. Khi bị zona ở mắt, cần khám chuyên khoa mắt ngay.

Như ta đã biết, giời leo là một biến chứng của bệnh trái rạ (đều do virus varicella-zoster gây nên). Chính vì vậy, cách phòng ngừa bệnh này tốt nhất là nên chủng ngừa bệnh trái rạ.

BS Trần Kim Hưng

Chàm thể tạng

Chàm thể tạng là một bệnh da dị ứng rất phổ biến có nguyên nhân nội sinh, xuất hiện ở mọi lứa tuổi, nam và nữ đều có khả năng mắc bệnh như nhau. Vì bệnh thường xảy ra ở một số người trong gia đình và có nhiều hồng ban – mụn nước nên dân gian thường gọi là chàm thể tạng là “ghẻ ruồi” hay “ghẻ dòng” và thường nghĩ là do muỗi cắn hoặc yếu gan, đau gan.

Chàm thể tạng thường diễn biến thành nhiều đợt và hay tái phát. Khởi đầu là xuất hiện một dát (vết) hồng ban hơi phù; rồi trên đó xuất hiện những mụn nước; mụn nước sẽ vỡ ra, rỉ dịch và đóng mày; sau khi mày tróc, da sẽ tróc vảy nhẹ và gây ngứa. Dát hồng ban có giới hạn quanh co, không rõ nét và ngứa dữ dội. Ở giai đoạn thành bệnh, da xuất hiện liên tục những đợt mụn nước, tạo thành những mảng hồng ban – mụn nước có kích thước rất thay đổi, từ vài centimet đến mảng to.

Có 4 dạng chàm thể tạng:

– Chàm thể tạng cấp (Eczéma aigu): Chàm thường xuất hiện đối xứng hai bên cơ thể trên mặt duỗi của tay chân, nhất là ở mu bàn tay và mu bàn chân. Trên da xuất hiện đột ngột những mảng hồng ban giới hạn mờ và ngứa dữ dội. Sau đó, xuất hiện những mụn nước nhỏ như đầu kim đứng riêng lẻ hoặc gom thành đám; đôi khi đọng thành bóng nước nhỏ gây ngứa. Nếu bệnh xảy ra ở mí mắt, bìu, âm hộ, da sẽ sưng phù do bản chất của bệnh và do cào gãi nhiều. Bệnh có thể diễn tiến khô ráo, mụt nước đóng mày và biến mất nhưng cũng có một số trường hợp mụt nước, bóng nước vỡ ra, liên tục rỉ dịch trong hoặc màu hơi vàng. Nếu lau khô lớp dịch sẽ thấy những lỗ khuyết nhỏ, gọi là “giếng chàm”; trường hợp này gọi là chàm rỉ dịch.

– Chàm thể tạng mạn tính (Eczéma chronique): Chàm khô, thương tổn là những mảng hồng ban ngứa, bề mặt thường có vết gãi, thượng bì liên tục vỡ và tróc ra những vảy mịn nhỏ; có khi tróc ra rất nhiều vảy dày, kích thước lớn.

– Chàm thể tạng liken hoá (Eczéma lichénifié): Chàm đã diễn tiến lâu ngày, ngứa liên tục, da bị cào gãi dữ dội nên bị liken hoá, nghĩa là dày và bề mặt có nhiềp nếp ngang dọc. Thương tổn là những mảng có giới hạn khá rõ, màu hồng, đỏ đậm hay hơi tím, thường có đám mụn nước.

– Chàm nhiễm trùng (Eczéma infécte): Còn gọi là chàm chốc hoá (Eczéma impétiginisé): thương tổn chàm bị nhiễm trùng, rỉ dịch đục, rồi có mủ; bề mặt thương tổn đóng mày dày, vàng như mật ong. Có thể đau hạch vùng liên hệ kèm theo nóng sốt.

Chàm thể tạng có thể diễn tiến thành từng đợt, khi lành để lại sẹo xấu. Bệnh thường tái phát; riêng với trẻ nhỏ, sau 12 tháng bệnh có thể tự khỏi hẳn.

Điều trị:

Dùng thuốc tùy theo dạng bệnh và giai đoạn bệnh. Có thể dùng các loại thuốc sau:

– Thuốc kháng histamin loại mới, ít gây ngủ để kiểm soát phản ứng dị ứng, bao gồm Cétirizine (Cetrine – Zyrtec); Loratadine (Clarityne); Acrivastine (Semprex). Nếu không thể kiểm soát cơn ngứa, bác sĩ có thể cho dùng thêm Dexchlorphéniramin (Polaramine); Hydroxyzine (Atarax); Chlorphéniramin vào buổi tối vì các thuốc này có khả năng gây ngủ.

– Trường hợp chàm nhiễm trùng: Bệnh nhân phải dùng thêm kháng sinh phổ rộng như Tétracyline, Erythromycien, Doxycyline, Roxithromycien (Rulid) hay sulfamid như Bactrim, Cotrim.

– Bệnh nhân còn được dùng thêm các thuốc như: thuốc trợ gan mật (Chophytol, B.A.R, Sulfarlem), thuốc giảm dị ứng ở gan (Hyposulfène) sinh tố PP.

– Với chàm thể tạng cấp tính hay rỉ dịch, cần điều trị tại chỗ để giảm rỉ dịch, làm cho nơi thương tổn khô ráo bằng cách:

+ Đắp bằng gạc sạch tẩm dung dịch thuốc tím pha với nước ấm, nồng độ 1/10.000 giúp chống viêm, làm cho bệnh nhân bớt ngứa và thấy dễ chịu hơn.

+ Dùng hồ nước có tính hút nước để làm cho nơi thương tổn khô ráo, giảm rỉ dịch và bảo vệ thượng bì.

Để hạn chế tái phát:

– Kiêng các thức ăn gây ngứa như thịt bò, cá biển, trứng gà lộn, trứng vịt lộn, cua ghẹ…

– Không xát xà phòng vào vùng da bệnh để da không bị kích thích và không bị ngứa thêm.

– Khi mang giày dép, cần lưu ý để vùng da bệnh không bị cọ xát để da không ngứa và dày thêm.

BS Lý Hữu Đức, (Bệnh viện Da liễu TP HCM)

Chàm tiếp xúc

Chàm tiếp xúc là một bệnh da dị ứng gây ngứa do tiếp xúc với một chất gây dị ứng (dị ứng nguyên).

Bệnh có thể xuất hiện dưới dạng cấp hay mạn tính. Thương tổn da xuất hiện dưới dạng hồng ban mụn nước như chàm thể tạng nhưng khác biệt ở điểm:

– Giới hạn rất rõ, theo hình dạng của vật tiếp xúc (chàm thể tạng có giới hạn không rõ).

– Xuất hiện ở bất cứ vị trí nào có dị ứng nguyên.

Khi bệnh diễn tiến mạn tính, da sẽ có dạng liken hoá do cào gãi nhiều hay do bội nhiễm.

Bệnh xảy ra từ 5-7 ngày sau lần tiếp xúc đầu tiên, đôi khi trễ hơn.

Nếu dị ứng nguyên là chất có hình dạng không đổi như dây đồng hồ, gọng kính, thương tổn sẽ có hình dáng của vật tiếp xúc. Nếu chàm tiếp xúc do thoa kem trang điểm ở mặt, các vị trí như hai gò má, cằm, trán trở lên đỏ hồng, rịn nước trong khi quanh hai mắt, mũi, miệng là những vùng không thoa thuốc có màu da bình thường.

Nếu dị ứng nguyên là chất lỏng, thí dụ dầu thơm, dị ứng có thể lan ra các vùng da kế cận.

Có khi, người bị chàm tiếp xúc ở bàn chân nhưng sau đó lại có những thương tổn tương tự ở bụng, cổ. Y học gọi đây là phản ứng tự thân ("id" réaction) hay phản ứng ở xa (réaction à distance).

Thương tổn tùy theo vị trí:

– Chàm tiếp xúc ở da đầu: Thường khô, có màu hồng, ngứa rất dữ dội. Sau khi ngừng tiếp xúc với chất gây dị ứng, vảy mịn như vảy phấn sẽ tróc ra và có thể gây rụng tóc tạm thời ở vùng da bệnh.

– Chàm tiếp xúc ở da mặt: Rất thường gặp, dưới dạng hồng ban mụn nước, có khi rịn nước. Thường do thoa trực tiếp kem trị bệnh hay kem trang điểm, chất tẩy trắng, tẩy nám; có khi do những chất bay trong không khí như bụi xi măng, phấn hoa, khói nhang...

– Ở mí mắt: Thường mí mắt hay bị sưng. Nếu mí mắt và kết mạc cùng lúc bị sưng đỏ, ngứa thì do dị ứng với thuốc nhỏ mắt. Nếu chỉ hai mí bị thì thường do thoa chất gây dị ứng vào mí mắt (thoa phấn màu vào mí mắt, bút chì kẻ mi, lông mày, xăm môi...)

– Ở dái tai: Thường do dị ứng với nikel trong bông đeo tai. Thương tổn khô, màu hồng, có vảy. Đôi khi có mụn nước, rỉ nước đưa đến trợt da, bội nhiễm vi trùng sinh mủ.

– Ở môi: Chất amalgame dùng trong điều trị răng có thể gây dị ứng trong miệng và lan ra môi.

Cũng có thể do thoa son lên môi hay do xăm môi.

– Chàm tiếp xúc ở bàn tay:

+ Ở mặt lưng bàn tay: Rất dễ gặp. Bệnh có thương tổn mụn nước, rỉ nước ở giai đoạn cấp, thương tổn trở nên khô và có vảy ở giai đoạn mạn tính. Các móng tay đều bị hư, có nhiều sọc ngang, không đều, giống như bàn tay thợ hồ.

+ Ở lòng bàn tay: Thường rất khó chẩn đoán vì dễ lầm với các bệnh da gây ngứa khác.

– Chàm tiếp xúc ở bàn chân: Lưng bàn chân hay bị hơn lòng bàn chân. Thương tổn ở lòng bàn chân cũng rất dễ lầm với các bệnh da gây ngứa khác.

– Chàm tiếp xúc ở bộ phận sinh dục: Ở đàn ông, chàm tiếp xúc tại bộ phận sinh dục gây phù nề rất dữ dội (da bìu) trong khi ở đàn bà thì ít hơn (môi lớn). Bệnh thường xảy ra cấp tính, rất ngứa, đôi khi có mụn nước, rỉ nước, đôi khi khô.

Để việc điều trị mang lại kết quả tốt đẹp, cần tránh tiếp xúc với các tác nhân gây dị ứng

Điều trị triệu chứng:

– Bác sĩ sẽ cho dùng các loại thuốc kháng dị ứng như Loratadine (Clarityne), Cétirizine (CéFrine-Zyrtec), Acrivastine (Semprex), Astémizole (Histalong) là những loại thuốc thuộc thế hệ mới, ít gây ngủ.

– Có thể dùng thêm sinh tố PP (Nicobion), sinh tố C, thuốc trợ gan mật (Chophytol, Sulfarlem), thuốc giải dị ứng ở gan (Hyposulfène).

– Nếu có rịn nước, có thể dùng thêm kháng sinh phổ rộng (Tétracycline, Erythromycine, Doxycyline, Rulid...) hay Sulfamide như Bactrim...

– Trường hợp bệnh nặng, sưng phù, có thể can thiệp bằng corticoid uống hoặc tiêm (Prednisolone, Bétaméthasone) nhưng cần phải cẩn thận và dưới sự theo dõi của bác sĩ.

Điều trị tại chỗ:

– Nếu thương tổn khô, có vảy, có thể bôi ít thuốc mỡ hay kem có chất kháng viêm bong vảy nhẹ (Diprosalic). Cần hạn chế dùng corticoid mạnh thoa tại chỗ (Bétaméthasone, Clobétasol...)

– Nếu thương tổn rịn nước, nên đắp ướt bằng thuốc tím pha loãng với nước ấm (nồng độ 1/10.000) hay phun sương với nước cất vô trùng. Và sau đó thoa hồ nước (Pâte à l'eau) để hút bớt nước rỉ ra từ thương tổn.

Phòng ngừa:

Tránh tiếp xúc với những chất gây dị ứng đã được biết; nhất là phải tránh bị lại lần thứ hai vì bệnh sẽ xuất hiện nhanh và rất nặng.

Cần có những biện pháp bảo hộ lao động thích hợp cho công nhân làm ở nhà máy xi măng, cao su, sản xuất dây thun, xí nghiệp thủy hải sản (do tiếp xúc thường xuyên với nước đá, muối...). Sự chăm lo đến những biện pháp an toàn lao động sẽ làm giảm thiểu các trường hợp chàm tiếp xúc do nghề nghiệp (bệnh da nghề nghiệp).

BS Lý Hữu Đức

Sạm da

Sạm da là tình trạng ứ đọng sắc tố ở da, thường gặp nhất là melanin. Đây là sắc tố được sinh ra do quá trình oxy hoá một hợp chất trong cơ thể. Màu da đen, vàng, trắng là do sự tập trung hay phân tán các hạt melanin trên da.

Các nguyên nhân gây ra sạm da được xác định là: do bẩm sinh và do các bệnh lý.

Sạm da do hoá chất (đặc biệt là các loại mỹ phẩm và thuốc): Trong vài năm gần đây có một toa thuốc trị mụn truyền miệng được pha chế và bán tại các tiệm thuốc tây, gồm: cortibion + aspirin + becozyme và thêm vài phụ liệu khác. Do có chứa corticoid, khi mới dùng lần đầu loại thuốc này, người dùng có cảm giác như da sạch mụn, trắng hơn, mịn hơn. Nhưng nếu tiếp tục sử dụng, thuốc sẽ gây teo da, mụn nổi nhiều hơn, da ngày càng nám hơn và có nhiều biến chứng nguy hiểm khác. Đồng thời, vì được pha chế bừa bãi bởi những người không có chuyên môn, điều kiện vệ sinh kém nên thuốc dẫn đến nhiễm trùng da, viêm da nặng nề.

Sạm da ở những người phụ nữ có thai: Thường liên quan đến nội tiết tố sinh dục nữ, một số trường hợp khỏi sau khi sinh.

Sạm da Riehl: Khởi đầu, bệnh nhân có triệu chứng đỏ da và ngứa, sau đó da sạm dần.

Thường ở những bệnh nhân này hay có kèm viêm đại tràng, viêm gan, thiếu vitamin PP...

Hội chứng Addison: Có đặc điểm là sạm da toàn thân, thường xuất hiện sau các triệu chứng rối loạn tiêu hoá, yếu cơ.

Về điều trị và phòng ngừa, cần lưu ý:

– Nếu xác định được nguyên nhân, phải giải quyết dứt điểm như ngưng sử dụng mỹ phẩm, các loại thuốc gây sạm da.

– Hạn chế tiếp xúc với ánh nắng.

– Phải đến bác sĩ khám khi sạm da ngày càng nhiều, đặc biệt là những trường hợp sạm da toàn thân.

BS Lê Thị Tuyết Phượng

Ung thư da

Ung thư da là một trong những bệnh ung thư thường gặp, dễ chẩn đoán; điều trị đạt kết quả tốt nếu được phát hiện sớm.

Hầu hết ung thư da phát sinh do bị ảnh hưởng kéo dài của tác dụng tia cực tím. Các tia cực tím xuyên qua da và làm tổn thương các tế bào sống, lúc đầu làm cho da rám nắng. Nếu như tiếp tục bị phơi dưới ánh nắng mặt trời quá mức, tia cực tím sẽ gây nguy hiểm cho da và làm cho bạn già trước tuổi.

Cũng có một số trường hợp ung thư da được phát hiện từ các nguyên nhân khác như: tia bức xạ ion hoá, các sản phẩm của nhựa, than đá, thạch tín...

Các loại ung thư da thường gặp:

Ung thư biểu mô tế bào đáy: Hay gặp ở vùng da hở, tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Là loại ung thư dễ chữa nhất, tỷ lệ khỏi bệnh gần 100%.

Ung thư biểu mô gai sừng hoá: Hay phát từ sẹo bỏng hoặc vết loét lâu ngày, là loại hay di căn hạch, có thể gây tử vong cao nếu không được phát hiện, chẩn đoán sớm và điều trị hợp lý.

Ung thư hắc tố: Thường khởi đầu bằng một nốt ruồi lành, tàn nhang hoặc một đám sắc tố bẩm sinh (bớt) nhưng cũng có thể phát triển ở chỗ da bình thường... Đây là loại ung thư của da hay di căn tới các bộ phận khác của cơ thể.

Những người có nguy cơ bị ung thư da: Tất cả những người mà da của họ không thường xuyên được bảo vệ khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Những người da trắng dễ có nguy cơ ung thư da hơn những người da màu. Những người làm việc ngoài trời như nông dân, người làm đường, người bị bệnh khô da nhiễm sắc, thiếu khả năng phòng ngừa tác hại của tia tử ngoại, người bị bạch biến do rối loạn chức năng sinh sản sắc tố, có vết sẹo bỏng cũ lâu ngày do xăng, vôi hoặc do vật gây cháy khác; người có vết loét hoặc ổ viêm nhiễm lâu ngày... đều có thể bị ung thư da.

Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư da:

– Vết loét dai dẳng, thỉnh thoảng lại chảy máu hoặc có thể khỏi trong từng thời kỳ.

– Những thay đổi tại một vùng da bị sừng hoá do ảnh hưởng của ánh nắng mặt trời như chảy máu, loét, cục nhỏ...

– Loét hay nổi cục tại vùng da đã được tia xạ từ trước hoặc tại một vết sẹo hay một đường rò.

– Một vết đốm đỏ nhạt mạn tính với sự xước trợt nhẹ.

Phòng bệnh ung thư da:

– Mặc áo nhiều màu hoặc tối bằng các chất liệu tự nhiên, nó sẽ bảo vệ da bạn được tốt hơn là áo màu sáng bằng chất liệu nhân tạo. Khi làm việc ngoài trời, cần sử dụng nón, mũ hoặc màn che nắng, dùng mũ nón rộng vành để che được cả đầu, mặt, cổ... hoặc tận dụng bóng râm của cây cối... Khi làm việc có tiếp xúc với hoá chất, phóng xạ, cần phải có biện pháp bảo vệ như đi găng, đi ủng, quần áo bảo hộ, kính, mặt nạ... Hạn chế làm việc ngoài trời nắng từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều. Thường xuyên vệ sinh da sạch sẽ, tránh và điều trị kịp thời các triệu chứng viêm nhiễm trên da.

– Da của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ rất nhạy cảm với ánh nắng mặt trời so với người lớn, thường trở nên rám nắng sau vài phút tiếp xúc. Một đứa trẻ bị phơi nắng quá nhiều khi trưởng thành dễ bị ung thư da. Vào buổi trưa (10 giờ sáng – 14 giờ chiều) cố gắng giữ cho trẻ không tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời, nên chọn chỗ cho trẻ ở dưới bóng cây, nếu phải ra ngoài phải dùng các biện pháp bảo vệ như: ô, mũ, nón.

– Cần nhắc lại rằng: Khi có bất kỳ một tổn thương nghi ngờ ở da bạn hoặc của người thân, nên tới và khuyên người thân tới các cơ sở y tế để khám. Mọi phát hiện và chẩn đoán sớm đều tốt cho bạn trong việc điều trị triệt để. Ung thư da có thể phòng ngừa được và dễ phát hiện sớm.

BS Nguyễn Chấn Hùng (Trung tâm Ung bướu TP HCM)

Phòng tránh và chữa trị rụng tóc

Rụng tóc có thể là biểu hiện sinh lý bình thường của cơ thể nhưng cũng có thể là một bệnh lý. Sau khi mọc, tóc sẽ già đi và rụng mất; tóc mới sẽ mọc lên thay thế. Do vậy, không có sợi tóc nào sống vĩnh viễn và tồn tại mãi trên da đầu. Chu kỳ rụng tóc bình thường có 3 giai đoạn: giai đoạn mọc tóc khoảng 1.000 ngày, giai đoạn ngưng mọc tóc khoảng 20 ngày và giai đoạn rụng tóc khoảng 100 ngày.

Trung bình mỗi ngày tóc rụng từ 50 đến 80 sợi. Nếu tóc rụng quá 80 sợi mỗi ngày là có vấn đề, cần đi khám để bác sĩ tìm hiểu nguyên nhân và cách giải quyết.

Có nhiều nguyên nhân gây rụng tóc, nhưng có thể chia làm 4 loại sau:

1. Rụng tóc cấp tính: Rụng tóc nhiều và nhanh trong thời gian ngắn. Có thể do:

– Nhiễm độc các chất: Ngộ độc vàng (gặp ở những người chế biến vàng), ngộ độc thủy ngân hay các chất phóng xạ (trong quá trình điều trị bằng phóng xạ (chạy tia chữa ung thư...); ngộ độc vitamin A hay thuốc ngừa thai.

– Do bệnh nhiễm trùng: Thường gặp sau khi bị các bệnh như sốt rét, thương hàn, viêm màng não, nhiễm trùng sau khi sinh, cảm cúm nặng, bệnh giang mai... Trường hợp này tóc sẽ rụng nhiều, nhưng sau khi hồi phục bệnh vài tháng, tóc sẽ mọc trở lại bình thường.

– Do nguyên nhân nội tiết: Gặp ở phụ nữ sau khi sinh hay đang điều trị nội tiết tố nam giới. Một số bệnh làm rối loạn nội tiết như bệnh của tuyến giáp, bệnh của tuyến yên, tuyến thượng thận...

– Do tác động thần kinh: Thường gặp sau khi bị một cơn xúc động mạnh, hoặc mắc bệnh về tâm thần như bị trầm cảm.

2. Rụng tóc mãn tính: Loại này thường gặp nhất. Diễn biến của bệnh rụng tóc loại này thường kéo dài, có thể trở thành mảng trụi tóc, làm da đầu láng nhẵn.

– Do quá trình tăng tiết bã nhờn trong cơ thể: Thường gặp người có da đầu nhờn, làm cho bụi dễ bám vào da đầu, tạo điều kiện nhiễm vi trùng, nhiễm nấm... gây viêm da đầu, làm cho tóc rễ rụng.

– Ở nam giới: Chứng rụng tóc dẫn đến hói đầu đôi khi là do yếu tố di truyền.

– Do dầu gội đầu: Một số dầu gội đầu có chứa thành phần hoá học tạo mùi thơm, chất tẩy rửa... làm cho tóc xơ khô và dễ rụng sau gội đầu hay chải tóc.

– Do thuốc nhuộm tóc và những hoá chất sử dụng uốn tóc: Các chất này có thể gây độc cho da đầu và nhiễm độc cơ thể nếu như da đầu bị trầy xước, có mụn nhọt...

– Do thiếu dinh dưỡng, thiếu vitamin và chất khoáng: Những người suy nhược cơ thể (nhất là sau suy nhược thần kinh) hay bị rụng tóc. Một số vitamin A, B, E... rất cần thiết cho da, cũng như khoáng chất như đồng, sắtNếu thiếu chúng, chân tóc yếu, tóc dễ bị rụng.

Rụng tóc mãn tính cũng xảy ra sau một số trường hợp bị chấn thương, bệnh tâm thần kinh, bệnh nội tiết.

3. Rụng tóc do nấm da đầu: Khi bị rụng tóc có kèm theo ngứa nhiều vùng da đầu hoặc có vảy gầu ở quanh chân tóc. Thường tóc rụng thành từng mảng ở trên da đầu nơi nhiễm nấm. Tùy theo nấm bị nhiễm mà có biểu hiện thêm như: tóc vừa rụng, vừa gãy, có viêm trên da đầu (vùng da dầy đỏ).

4. Bệnh trụi tóc: Loại này thường khó xác định nguyên nhân. Đột nhiên tóc rụng trụi đi một vùng, có thể xảy ra cùng với trụi râu (ở nam giới) hoặc trụi đi cả lông mày.

Những yếu tố có thể gây tác động cho rụng trụi tóc là do rối loạn tâm thần kinh, rối loạn về nội tiết, hoặc do nhiễm trùng cấp tính toàn thân

Chữa trị và phòng tránh rụng tóc

Trước tiên phải xác định được nguyên nhân, xem đó là trạng thái sinh lý bình thường hay là bệnh lý rồi tùy theo nguyên nhân mà chữa trị.

– Không nên thay đổi dầu gội đầu liên tục vì dầu gội không có tác dụng ngăn chặn rụng tóc, cũng không thể gây rụng tóc (ngoại trừ dầu pha chế rởm hoặc giả mạo).

– Sự mọc tóc chịu ảnh hưởng ở phần sâu bên trong tóc. Hiện nay chưa có thuốc bôi nào có hiệu quả rõ ràng trong việc ngăn chặn rụng tóc hoặc kích thích tóc mọc. Minoxidil (Neoxidil) là thuốc bôi thích hợp cho người hói đầu do ảnh hưởng của androgen, kết quả đạt được khoảng 30% sau khi bôi thuốc liên tục ít nhất 6 tháng. Finasteride là thuốc ức chế men 5 alpha reductase, men này giúp không cho testosteron trở thành dihydrotestosteron – chất đóng vai trò quan trọng trong bệnh hói đầu do androgen. Gần đây việc cấy tóc đã được tiến hành tại TP HCM. Nhưng tốt nhất là nên chăm sóc tốt da đầu để tránh rụng tóc:

1. Giữ sạch da đầu: Bằng cách gội đầu thường xuyên. Nên gội đầu mỗi ngày một lần với loại xà bông có màu trong (không pha chất màu). Nên gội đầu bằng nước nóng. Một số xà bông có mùi thơm nhiều và nặng mùi, dễ làm tăng rụng tóc.

Nên gội xà bông hai lần liên tục để làm sạch những cáu bẩn khó sạch trong lần gội đầu tiên. Tốt nhất là dùng dầu xả sau khi gội vì loại này có khả năng chống chất tẩy rửa của xà bông và làm cho tóc mềm, mượt, tránh được sự bám bẩn của bụi.

2. Tập xoa da đầu: Xoa da đầu có tác dụng làm lưu thông tuần hoàn da đầu, tạo điều kiện tăng sự tưới máu đến nuôi dưỡng chân tóc. Ngoài ra, việc chà xát lên da đầu còn có tác dụng phân tán những phần dầu đọng ở chân tóc. Việc xoa da đầu có thể áp dụng ngay trước và trong khi gội. Ngoài lúc gội đầu, bạn có thể áp dụng xoa da đầu trong ngày vài ba lần, trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy.

3. Không nên sử dụng máy sấy tóc sau khi gội đầu: Máy sấy tạo nên nhiệt độ quá nóng làm cho tóc bị giòn và dễ gãy. Tốt nhất là hong tóc khô bằng quạt gió.

4. Nên chải tóc bằng lược có răng thưa và chải nhẹ nhàng.

5. Tránh tập trung suy nghĩ gây căng thẳng: Khi thần kinh bạn căng thẳng, nhiệt độ ở da đầu có thể tăng làm cho bạn có cảm giác nóng ran. Điều này sẽ tạo điều kiện tiết ra các chất dầu ở chân tóc. Ngoài ra, suy nghĩ nhiều cũng tác động làm tăng tiết androgen là một kích thích tố có tác dụng thúc đẩy sự tiết chất nhờn bã của cơ thể. Người ta hay nói "suy nghĩ đến sói đầu"; đó là một thực tế.

6. Bổ sung dinh dưỡng: Những người suy nhược cơ thể thường hay bị rụng tóc, những người sau khi sinh, sau một cơn bệnh nặng đều dễ bị rụng tóc. Cần có chế độ ăn đầy đủ dinh dưỡng, bổ sung vitamin (A, B, C...) và các thành phần chất khoáng (đồng, sắt, kẽm...) có trong những viên thuốc đa sinh tố.

Khi bị chứng rụng tóc (khoảng mấy chục sợi trong một lần gội, chải đầu), nên đi khám để tìm nguyên nhân. Ngoài điều trị những nguyên nhân gây rụng tóc, bạn có thể áp dụng một số những biện pháp phòng tránh nêu trên để đảm bảo cho mái tóc của bạn luôn được bóng, mềm, mịn, mượt. Muốn chữa trị tốt, phải tìm đến bác sĩ chuyên khoa da liễu.

BS Thái Hiệp

Rụng tóc do androgen

Rụng tóc do androgen là nguyên nhân thường gặp nhất ở nam và nữ, chiếm khoảng 1/3 số bệnh nhân rụng tóc. Bệnh nhân thường rụng tóc lúc 20 tuổi, càng sớm thì dự hậu càng xấu. Tóc bắt đầu rụng ở vùng thái dương và vùng trán kiểu hình chữ M. Tóc ở vùng trán và đỉnh đầu thưa dần đến khi chỉ còn một vành trên gáy theo hình móng ngựa. Tóc ở vùng rụng được thay bằng những sợi mảnh, mềm và sáng hơn như lông măng, đôi khi không nhìn thấy và cũng rất dễ rụng.

Tóc rụng theo nhiều cơn bộc phát liên quan đến thời tiết và công việc lao tâm của bệnh nhân. Da đầu của bệnh nhân có khi sạch và tiết nhiều chất nhờn, làm tóc dính vào nhau, thường có vảy phấn. Khi tóc rụng hết, vảy phấn sẽ biến mất, đầu láng bóng và thượng bì hơi teo. Ở nữ thường rụng tóc ở vùng giữa da đầu. Trán ít bị và thường rụng lan toả hơn.

Nguyên nhân: Do hai yếu tố quan trọng là di truyền và nội tiết. Các nang lông nhạy cảm với dihydrotestosteron. Dihydrotestosteron là dạng hoạt động của testosteron (một loại androgen) được biến đổi nhờ men 5 alpha – reductase. Sự nhạy cảm này được quyết định bởi yếu tố di truyền. Cơ chế tác động hiện nay người ta vẫn chưa rõ, ở những người bị hoạn không bao giờ bị hói, tuy nhiên khi cho testosteron vào những người bị hoạn (có yếu tố gia đình) thì có hiện tượng rụng tóc.

Điều trị:

– Tại chỗ rụng tóc: Có thể dùng Minoxidil (dung dịch 2%). Xịt 1 ngày 2 lần lên vùng rụng tóc, mỗi lần xịt 10 nhát (10 nhát tương đương với 1 ml). Thuốc có hiệu quả sau 4 tháng điều trị liên tục và cần duy trì tối thiểu trong 1 năm để ngăn rụng tóc trở lại. Hiệu quả tốt trong các trường hợp bệnh nhân còn trẻ, thời gian rụng tóc dưới 10 năm, ranh giới vùng rụng tóc dưới 10 cm.

– Cấy tóc: áp dụng cho một số bệnh nhân thích hợp.

Chú ý:

+ Bệnh nhân nữ có thể dùng chất ức chế androgen như Cyproterone Acetate.

+ Thuốc ngừa thai có nhiều progesteroen có thể làm bệnh nặng hơn.

+ Các bệnh nhân bị rụng tóc cần điều trị bệnh lý tuyến giáp và thiếu máu nếu có.

+ Khi có dấu hiệu rụng tóc thì nên khám tại bệnh viện da liễu (bình thường một ngày rụng dưới 100 sợi tóc. Đánh giá rụng tóc bằng cách kéo mạnh một nhúm tóc khoảng 15-20 sợi, nếu rụng hơn 6 sợi là bất thường).

BS Nguyễn Phan Anh Tuấn

Cẩn thận với thuốc nhuộm tóc

Hiện nay, tại bất cứ một dịch vụ làm tóc nào, các thợ hớt tóc cũng đều ra sức thuyết phục khách hàng trẻ nhộm tóc theo những model được in sẵn trong calalogue. Thuốc nhuộm tóc thực ra là một độc chất mà nếu lạm dụng sẽ gây ra những tác hại khó lường.

Theo một công trình nghiên cứu của Viện Ung thư quốc gia Mỹ (National Cancer Institute – NCI), những người nhuộm tóc càng lâu, dùng màu càng đậm thì nguy cơ mắc bệnh ung thư càng cao. Nghiên cứu đã đưa ra những kết quả chứng minh rằng, những người nhuộm tóc nâu nhạt, nâu sẫm và đỏ đậm thì có nguy cơ bị ung thư cao nhất. Các công trình nghiên cứu khác cũng cho thấy, người dùng thuốc nhuộm tóc thường có tần số mắc bệnh ung thư cao hơn 50% so với những người không dùng thuốc nhuộm tóc.

Nhuộm tóc là một nhu cầu làm đẹp chính đáng. Tuy nhiên, khi nhuộm, cần cân nhắc giữa lợi ích của sức khỏe và vấn đề thẩm mỹ. Khi dùng thuốc nhuộm, cần lưu ý những vấn đề sau đây:

– Đa số thuốc nhuộm tóc có thành phần là các hợp chất có thể gây dị ứng cho da và gây tác hại nghiêm trọng đến các cơ quan khác như mũi, miệng, mắt... Thông thường trong mỗi hộp thuốc nhuộm tóc có chứa hai chai với thành phần hoá học khác nhau, ở dạng bột hay dạng nước; khi sử dụng sẽ trộn hai chai với nhau theo liều lượng thích hợp.

– Những loại thuốc nhuộm tóc khi pha quá 30 phút mà chưa sử dụng thì phải đổ bỏ. Khi pha thuốc nhuộm tóc, cần tránh dùng các đồ chứa bằng kim loại. Khi nhộm, không nên dùng lược chải bằng kim loại.

– Trước khi nhuộm tóc cần phải thử phản ứng thuốc trên da. Chấm một đốm nhỏ lên da rồi để thuốc khô tự nhiên. Sau 48 giờ, nếu vùng da chấm thuốc bị nổi đỏ, sưng hoặc ngứa thì phải rửa ngay vết thuốc ở chỗ thử và tuyệt đối không nên dùng loại thuốc ấy nữa.

Những trường hợp sau đây cũng không được dùng thuốc nhuộm tóc:

– Vùng da ở đầu, mặt, cổ bị thương hay sưng đau.

– Phụ nữ trong thời gian hành kinh hoặc trong thai kỳ.

Tuyệt đối không nhuộm lông mày và lông mi. Trong lúc nhuộm, tránh giây thuốc lên da. Khi thuốc văng vào mắt thì cần phải đến bác sĩ nhãn khoa ngay.

Không nên nhuộm tóc một tuần trước và sau khi uốn tóc.

Cẩn trọng hơn, khi nhuộm tóc, nên dùng kem thoa mặt bôi thật dày để bảo vệ những vùng da giáp chân tóc và vùng quanh tai.

BS Huy Cường


Từ Khóa:

Bệnh về da và tóc || Cẩm nang sức khỏe gia đình || Mẹo vặt trong cuộc sống hàng ngày ||


Quảng cáo: Trái cây sấy xuất khẩu sỉ và lẻ

Xem thêm Cẩm nang sức khỏe gia đình

Hạn chế dùng thuốc

Chăm sóc trẻ em bệnh

Ung nhọt ngoài da

Căng thẳng mệt mỏi

Các bệnh về mắt

Bệnh tai mũi họng

Bệnh răng miệng

Các bệnh xương khớp

Các bệnh về hệ tuần hoàn

Bệnh về gan

Lao và các bệnh hệ hô hấp

Bệnh về đường tiết niệu

Các bệnh đường tiêu hoá

Các loại sốt thông thường

Trà Hoa Thảo Mộc Đà Lạt

Tìm kiếm

Nông Sản Sạch



Kẹo Xoài




Xoài Sấy Dẻo