Trà Hoa Thảo Mộc



Táo đỏ Tân Cương




Trà Hoa Hồng



Cẩm nang sức khỏe gia đình

Các bệnh về hệ tuần hoàn

Đau tim

Bạn có cảm giác khó thở khi làm việc gắng sức hay không? Hoặc khi đi lên tầng lầu, thấy ngợp thở dù chỉ thoáng qua rồi hết? Sáng sớm ngủ dậy, bạn có nhìn thấy mí mắt hơi sưng lên, thỉnh thoảng thấy nặng ở chân, ấn mạnh ngón tay lên vùng mắt cá chân thấy để lại dấu vân tay lâu mà không thấy tan đi? Thỉnh thoảng bạn có nghe được tiếng đập "thình thịnh" của tim hay thấy nhói đau ở trước ngực...?

Khi có một vài biểu hiện trên, bạn cần nghĩ đến bệnh liên quan đến tim mạch. Điều quan trọng là nếu nghi ngờ, bạn nên tìm đến bác sĩ ngay, không nên coi thường bỏ qua dù chỉ là những triệu chứng nhẹ nhàng. Tuy nhiên, cũng không nên hốt hoảng quá mức và nghĩ ngay mình bị đau tim.

Điều cần quan tâm:

– Phát hiện sớm các bệnh tim bẩm sinh và chữa trị.

– Phòng và điều trị các bệnh cao huyết áp, đái tháo đường.

– Chống xơ vữa động mạch bằng cách tránh ăn nhiều chất béo.

– Dự phòng bệnh thấp khớp (hay bệnh thấp tim) ở trẻ em.

– Điều trị triệt để các bệnh phổi mạn tính.

– Tránh các bệnh nhiễm trùng.

– Dự phòng và điều trị các bệnh về tim mạch.

– Chữa trị một số bệnh khác có thể gây đau tim như bệnh bướu cổ, bệnh thiếu máu.

Lưu ý đến những thói quen trong sinh hoạt hằng ngày. Những người có thói quen sinh hoạt bất thường dễ mắc bệnh tim hơn người khác. Do đó, sự chăm chú về sinh hoạt rất có lợi cho bạn.

Một số điều nên thực hiện để phòng bệnh đau tim

1. Nên tập thể dục thường xuyên và đều đặn. Đi bộ hay xe đạp cũng là một cách tăng cường sức khỏe.

2. Bỏ thói quen hút thuốc lá.

3. Ăn uống điều độ, tránh dùng nhiều chất béo và các sản phẩm làm từ chất béo, hạn chế ăn muối (ăn lạt) và tránh uống nhiều rượu (không quá 20 ml trong một ngày).

4. Nên có thói quen đi khám bệnh định kỳ để phát hiện sớm các bệnh liên quan gây đau tim,

cũng như kịp thời chữa trị, cần thiết kiểm tra lượng mỡ trong máu.

5. Không được sử dụng thuốc chữa bệnh bừa bãi, vì có nhiều loại thuốc gây độc cho cơ thể, nhất là phụ nữ có thai. Đặc biệt, khi được bác sĩ cho sử dụng thuốc để chữa bệnh, cần phải tuân thủ đúng hướng dẫn.

6. Nên tạo cuộc sống tinh thần thoải mái, tránh những căng thẳng (stress). Cần điều độ trong chế độ sinh hoạt hằng ngày về thời gian làm việc và nghỉ ngơi.

BS Thái Hoà

Tim đập nhanh – khó thở

Khi làm việc nặng, gắng sức, tập thể dục thể thao (chạy, nhảy, bơi lội, đua xe đạp, chơi cầu lông, bóng bàn, bóng rổ, đá bóng...) tim chúng ta thường đập nhanh lên, trên 80 lần/phút, có thể đến 140 lần/phút ở người bình thường, nhịp thở cũng nhanh hơn, trên 20 lần/phút. Đó là hiện tượng sinh lý bình thường, vì khi đó, các cơ hoạt động mạnh, chuyển hoá cơ bản tăng, cơ thể cần được cung cấp một khối lượng lớn dưỡng khí cho việc sản xuất ra nhiệt lượng để bù trừ vào số calori đã tiêu hao. Chỉ cần nằm, ngồi nghỉ vài chục phút sau là tim mạch và phổi trở lại bình thường (đối với người có sức khỏe bình thường).

Khi bị xúc động, tim cũng đập nhanh, ngực đập phồng tưởng chừng như nghẹt thở; đó cũng là phản ứng sinh lý của cơ thể để ổn định lại sự kích thích mạnh hệ thống thần kinh giao cảm. Đôi khi bạn vui chơi trong những ngày lễ Tết, uống một ly rượu thơm hay rượu mạnh cũng thấy nhịp tim và nhịp thở trở nên nhanh. Chất men rượu kích thích các tuyến tiêu hoá hoạt động mạnh, ngấm nhanh vào máu, kích thích trung ương thần kinh, làm tăng chuyển hoá các chất, gây nên những hiện tượng trên. Nếu chỉ thế thì không có gì nguy hiểm; nhưng nếu uống rượu liên tục, trở thành nghiện rượu thì không những có hại cho tim mà còn hại gan, hệ thần kinh...

Nếu tim đập nhanh, khó thở vì những lý do kể trên thì không có gì lo ngại, đó là phản ứng sinh lý bình thường của cơ thể. Nhưng ngoài những nguyên nhân đó, nếu tim đập nhanh và khó thở xảy ra thường xuyên một cách vô cớ thì cần phải đi khám bệnh chuyên khoa tim phổi để xác định bệnh và điều trị đúng cách.

Khi ngồi xổm lâu, nếu đột nhiên đứng dậy, bạn bỗng thấy tối tăm mặt mũi, chóng mặt dữ dội, trước mắt tối đen, sau vài phút mới trở lại tình trạng bình thường, nhiều người cho đó là hiện tượng thiếu máu, thể chất suy nhược, nên nóng ruột lo lắng, vội đi xét nghiệm tìm thuốc chữa bệnh.

Hiện tượng này hầu như ai cũng có, không phải bệnh mà là một hiện tượng sinh lý. Lúc ngồi xổm, hai chân và bụng dưới bị nén, máu trong mạch máu khó lưu thông. Khi bạn bỗng nhiên đứng lên, mạch máu bị đè ở hai chân và bụng dưới lập tức phản ứng nở ra, một lượng máu lớn chảy xuống nửa người dưới, não xuất hiện tình trạng thiếu máu. Do não thiếu máu nên có cảm giác chóng mặt, mắt thiếu máu nên tối sầm lại, chẳng thấy gì. Để giải quyết hiện tượng thiếu máu này, não ra mệnh lệnh, dùng biện pháp khẩn cấp làm cho mạch máu bụng co lại, não và mắt lại có đủ máu. Do đó trong vài giây, bạn không còn chóng mặt, hoa mắt nữa.

Với người rèn luyện cơ thể tốt, hiện tượng này có thể nhẹ đi. Nói chung, khi ngồi xổm lâu quá, nên đứng dậy từ từ để não không bị thiếu máu đột ngột.

BS Phạm Văn Đảm

Rối loạn nhịp tim

Để trái tim hoạt động như một máy bơm máu, cần phải có các luồng xung điện xuất phát từ nút xoang, lan theo các đường dẫn truyền gồm nút nhĩ thất, nhánh phải, nhánh trái để đến các cơ tim, khích thích gây co bóp. Nếu tim co bóp với tần số từ 60– 100 lần/phút khá đều thì đó là nhịp xoang bình thường. Từ 120 lần/phút trở lên là nhịp nhanh xoang. Khi từ 59 lần/phút trở xuống thì nhịp chậm xoang. Khi nhịp xoang không đều gọi là rối loạn nhịp xoang.

Rối loạn nhịp tim bao gồm tất cả loại nhịp tim nào không phải là nhịp xoang bình thường. Đó là tình trạng:

– Bất thường trong việc tạo ra các xung điện do xự xuất hiện của nhiều ổ tạo nhịp khác (nằm phía trên tâm thất hay nằm tại tâm thất).

– Bất thường trong cách thức dẫn truyền các xung điện: Bị nghẽn (bloc) nhánh phải hay nghẽn nhánh trái, bloc tại nút nhĩ thất, có thêm đường dẫn truyền phụ... Nguyên nhân: Do sự hình thành các vòng vào lại (giống như là các vòng xoay ở nút giao thông) khiến xung điện luôn quay lại đường cũ để kích thích trở lại các vùng cơ tim trước đó. Các rối loạn nhịp tim thường gặp nhất là các nhịp ngoại tâm thu, các bloc nhánh, các cơn nhịp nhanh (rung nhĩ, nhịp nhanh trên thất, nhịp nhanh thất, rung thất...) các cơn nhịp chậm (bloc nhĩ thất hoàn toàn, hội chứng suy nút xoang...)

Rối loạn nhịp tim có thể không phải do bệnh của tim mà là do các nguyên nhân khác gây ra. Người bệnh sẽ cảm thấy hồi hộp tức ngực, đau ngực hoặc choáng váng, muốn ngất xỉu, tụt huyết áp (khi ngoại tâm thu xuất hiện nhiều hàng loạt).

Bình thường, ta không hề chú ý đến trái tim ta đang đập ra sao. Cảm giác hồi hộp chỉ xuất hiện khi nhịp tim tăng lên hoặc nhịp tim không đều, khi nhát bóp ngoại tâm thu thất mạnh hơn bình thường, sau đó lại có khoảng nghỉ bù khiến ta thấy như tim ngưng đập thoáng qua.

Rối loạn nhịp tim xuất hiện từ lúc còn là bào thai cho đến tuổi già. Lứa tuổi nào cũng có loại loạn nhịp nặng, càng lớn tuối rối loạn nhịp càng nhiều hơn, ảnh hưởng xấu hơn vì có nhiều bệnh tim hơn.

Rối loạn nhịp tim sẽ gây ra hậu quả gì?

Hầu như tất cả mọi người đều có một dạng rối loạn nhịp tim nào đó trong đời, trong đó đa số trường hợp xuất hiện trên trái tim bình thường. Đôi khi rối loạn nhịp tim có lợi cho cơ thể.

– Khi nút xoang suy yếu đến mức không làm việc được, nút nhĩ thất sẽ phát xung điện để thay thế nút xoang "lãnh đạo" trái tim.

– Khi lo sợ, sốt cao, làm việc nặng, nhịp nhanh xoang hơn 100 lần/phút, giúp tim cung cấp đủ nhu cầu cho cơ thể, nếu nhịp tim không tăng mới là bệnh lý.

Nhịp xoang không đều có thể gặp ở trẻ em bình thường do ảnh hưởng nhịp thở. Nhưng nếu nhịp xoang đều như nhịp đồng hồ: có thể nghi ngờ là bệnh thông liên nhĩ.

Tác hại của rối loạn nhịp tùy thuộc chủ yếu vào bệnh tim có sẵn nặng hay nhẹ, còn việc tần số tim nhanh hay chậm và tồn tại đã bao lâu chỉ có ảnh hưởng nhỏ.

Khi nhịp tim chậm còn chừng 35 lần/phút, có thể gây ra cơn ngất xỉu gọi là cơn Adam Stocks.

Cơn nhịp nhanh nguy hiểm bậc nhất là rung thất báo hiệu tim sẽ ngưng đập, hoặc vô tâm thu (tim không co bóp).

Xử lý khi bị rối loạn nhịp tim

Người bệnh phải cung cấp đủ các thông tin cho thầy thuốc: có dùng chất kích thích như rượu, cà phê, thuốc lá không; có dùng loại thuốc trị sổ mũi, thuốc nhuận trường hoặc lợi tiểu, rượu thuốc không; tình trạng loạn nhịp tim gây khó chịu đến mức độ nào, có gây đau ngực, chóng mặt, muốn ngất xỉu hay không; trong gia đình có ai bị bệnh tương tự?

Từ đó, bác sĩ sẽ xác định đây là loại rối loạn nhịp nào, có phải hậu quả của bệnh tim, trong tương lại có gây biến chứng nguy hiểm nào không.

Nguyên tắc cơ bản là: Chỉ điều trị rối loạn nhịp tim cho những bệnh nhân riêng lẻ chứ không có bài thuốc cho riêng mỗi loại rối loạn nhịp.

Nên lưu ý: Trước đây, vài người tự ý sử dụng một loại thuốc chống loạn nhịp tim rất thông dụng là Amiodarone (Cordrone) mà không có ý kiến chuyên môn, hậu quả là bị biến chứng cường hoặc nhược năng tuyến bệnh giáp trạng, xơ hoá phổi.

Các thuốc điều trị loạn nhịp tim cực kỳ nguy hiểm ở chỗ khi trị rối loạn nhịp tim, nó cũng có khả năng gây ra những loạn nhịp tim khác còn nguy hiểm hơn nếu không dùng đúng và theo dõi sát.

BS Nguyễn Công Tâm

Rối loạn thần kinh tim

Rối loạn thần kinh tim là cách gọi chung để giải thích những hiện tượng khác nhau thường xảy ra ở vùng tim mà thầy thuốc cũng như bệnh nhân chưa xác định rõ nguyên nhân xuất phát. Những hiện tượng đó thường là: tim đập nhanh, dễ hồi hộp; hoặc tim đập chậm; dễ choáng váng, chóng mặt, ngất, loạn nhịp tim loại ngoại tâm thu. Đôi khi bệnh nhân có cảm giác đau nhói, đau tức, nặng nề ở vùng tim, khi ngủ có hiện tượng bóng đè... khám tim không phát hiện thấy các tổn thương thực thể ở các hệ thống van tim, trên bảng ghi điện tim không thấy có biến đổi gì rõ ràng. Những hiện tượng khác thường xảy ra ở vùng tim, không có các tổn thương thực thể ở trong tim, nhưng có ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của toàn cơ thể, trong đại đa số các trường hợp đều do tình trạng không ổn định của hệ thống thần kinh trung ương và một phần của hệ thống thần kinh tự động trong tim gây ra.

Phòng trị

– Bệnh nhân phải được nghỉ ngơi hoàn toàn trong thời gian nhất định từ 1 đến 3 tháng ở nơi yên tĩnh, tốt nhất là không có tiếng động ồn ào, ở nơi đồng quê mát mẻ có không khí trong lành càng hay.

– Phải kiên quyết tránh các hiện tượng kích thích quá mạnh đối với hệ thống thần kinh, gây xúc động quá mức hoặc gây căng thẳng về thần kinh, nhất là đối với những người dễ xúc động, như tránh đọc truyện, xem phim gây cấn, tránh họp hành căng thẳng, thức khuya...

– Không uống rượu, hút thuốc lá, thuốc lào hoặc ăn uống thoái quá, không uống trà đậm hay cà phê buổi tối làm mất ngủ. Ăn nhiều rau quả tươi có nhiều sinh tố, ăn điều độ, đủ chất (đạm, béo, bột).

– Tập thể dục thể thao đều đặn. Các môn thể thao như bơi lội, bóng bàn, tập uốn dẻo, thái cực quyền... Nếu làm công việc bắt buộc phải ngồi hay đứng, phải tập trung tư tưởng, tập trung động tác liên tục... thì phải có thời gian nghỉ ngơi giữa giờ.

– Thỉnh thoảng tham gia các loại hình giải trí nhẹ nhàng như xem phim vui, nghe nhạc nhẹ...

– Chỉ dùng thuốc một cách hạn chế khi xúc động mạnh, tim đập dồn dập, khó ngủ hoặc mất ngủ, có thể dùng thuốc an thần loại Valium 5 mg/1 viên, nằm nghỉ ngơi. Uống sinh tố nhóm B,

C hoặc uống thuốc trợ tim theo chỉ định của bác sĩ.

BS Phạm Văn Đảm

Ngất và khả năng điều trị chứng ngất tim

Ngất là một chứng thường gặp, đặc biệt ở tuổi thanh thiếu niên, xảy ra đột ngột, làm cho người bệnh bất tỉnh, da tái nhợt và hoàn toàn mất tri giác một lúc, sau đó lại tỉnh dậy. Lúc này, tim có thể ngừng đập hoặc đập rất chậm và rất khẽ. Người bệnh không thở hoặc như ngạt thở. Ngất xảy ra do không có đủ máu đến nuôi dưỡng não, có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, không nhất thiết chỉ là do bệnh tim mạch.

Ngất trong bệnh tim mạch hay còn gọi là ngất tim, có thể gặp trong tất cả các bệnh lý của tim mạch. Ở những người bị bệnh tim, khi có thêm một yếu tố bên ngoài tác động vào như hốt hoảng, lo sợ, căng thẳng quá mức, làm việc gắng sức hay dùng thuốc không đúng, người bệnh ở trong tình trạng tim ngừng đập trong một thời gian rất ngắn, mà y học gọi là chết lâm sàng (tạm hiểu là chết một lúc nhưng còn có khả năng sống lại được). Ngất tim thường gặp trong các bệnh lý về tim và mạch máu làm lượng máu đến não nuôi dưỡng không đầy đủ, chẳng hạn:

– Bệnh của cơ tim và bệnh của động mạch vành; bệnh hẹp van động mạch chủ; bệnh hạ huyết áp. Ngoài ra ngất còn xảy ra đối với trường hợp tim đập quá chậm (dưới 25 lần trong một phút) hoặc tim đập quá nhanh (trên 180 lần trong một phút).

Ngất trong các bệnh không do tim có thể gặp là:

– Bệnh ở phổi kèm theo khó thở làm giảm hấp thụ oxy vào máu hoặc trong trường hợp điện giật, chết đuối, ngộ độc gây ngừng thở.

– Bệnh hạ đường trong máu.

– Bệnh thiếu máu nặng.

– Rối loạn về thần kinh: Thường thấy ở người dễ cảm xúc. Có thể gặp ở người bị chấn thương sọ não...

Như vậy, ngất có thể gặp trong bệnh tim mạch cũng như ở một số bệnh khác. Và tình trạng ngất xảy ra vì máu không đủ ở trong não chứ không hẳn là do suy tim gây ra mà nhiều người đã lầm tưởng trong bệnh suy tim.

Điều cần lưu ý, ngất có thể ở một số người bị động kinh (người dân hay gọi là lên kinh phong). Trường hợp có những xúc động tình cảm quá mạnh như tức giận (mà người ta hay nói là "tức đến chết lịm đi") hoặc do quá sợ hãi, quá đau đớn hay quá buồn... cũng có thể gây ra ngất.

Ngất do tụt huyết áp có thể là sự cảnh báo khi nó kết hợp với cơn động kinh. Hình thức điều trị ban đầu thông thường là dùng thuốc. Những thuốc khác nhau có thể gây những tác dụng ngoài ý muốn và tốn kém. Một liệu pháp thay thế là gia tăng lượng nước uống bằng cách cho uống nước duy trì ở những bệnh nhân bị ngất do tụt huyết áp. Người ta đưa ra nghiên cứu về "liệu pháp uống nước": Một liệu trình dùng nước uống, cho bệnh nhân có bệnh sử bị ngất do tụt huyết áp, bao gồm:

– Bắt đầu từ buổi sáng, cho bệnh nhân uống nước mỗi ngày một lượng tối thiểu là 920 ml, tương đương nhu cầu hằng ngày của người nặng 40 kg.

– Nước uống không có cà phê để tránh tiểu nhiều.

– Cho phép ăn mặn nhẹ nhưng không nhiều.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, liệu pháp uống nước là một trị liệu có hiệu quả, cải thiện được

tình trạng ngất do hạ huyết áp, các tác giả đã đề nghị áp dụng liệu pháp uống nước như là một sự can thiệp ban đầu về phòng tránh ngất do hạ huyết áp.

BS Lê Thiện Anh Tuấn

Thiếu máu

Có nhiều nguyên nhân gây thiếu máu:

– Ăn uống không đúng cách (thiếu chất dinh dưỡng) như thiếu chất sắt, axit folic, chất đạm, các sinh tố B2, B6, B12 và E tham gia vào quá trình tổng hợp hồng huyết cầu.

– Xuất huyết ồ ạt như bị chấn thương mạch máu, xuất huyết dạ dày, tá tràng, xuất huyết do ho ra máu, có thai ngoài tử cung...

– Chảy máu rỉ rả nhưng liên tục (không cầm) vì giun móc, giun tóc hút máu niêm mạch ruột non. Một con giun, móc có khả năng hút 0,15 – 0,26 ml máu mỗi ngày, nếu cơ thể chứa 100 con giun móc thì mỗi ngày mất 15 – 26 ml máu, mỗi tháng mất 450 – 780 ml. Ký sinh trùng sốt rét (plasmodia) là tác nhân gây thiếu máu trầm trọng do làm vỡ các hồng huyết cầu.

Những đối tượng thiếu máu là trẻ sinh thiếu tháng, trẻ bị tiêu chảy kinh niên, phụ nữ mang thai, bà mẹ cho con bú...

Người bị thiếu máu thường xanh xao, niêm mạc mắt và môi nhạt màu, lòng bàn tay không hồng hào, mạch nhanh (đập trên 80 nhịp/phút), hay bần thần, mệt mỏi, lười ăn, khó thở (trường hợp thiếu máu nặng). Người thiếu máu khi nồng độ huyết cầu tố thấp hơn các trị số sau đây:

– Trẻ con 6 tháng – 6 tuổi: 11 g huyết cầu tố /100 ml máu tĩnh mạch.

– Trẻ 6 – 14 tuổi: 12 g huyết cầu tố /100 ml máu tĩnh mạch.

– Người lớn: Nam 13 g, nữ 12 g, phụ nữ có thai 11 g/100 ml máu tĩnh mạch.

Muốn điều trị thiếu máu, phải chẩn đoán đúng nguyên nhân. Phải giải quyết các nguyên nhân chứ không nên sử dụng thuốc "bổ máu". Nếu thiếu máu do xuất huyết dạ dày, bệnh phổi, bệnh phụ khoa, bệnh sốt rét thì phải điều trị tận gốc. Xét nghiệm phân, máu đối tượng nghi ngờ mắc giun móc để có hướng điều trị. Đối với trẻ sinh thiếu tháng, trẻ bị tiêu chảy kinh niên, phụ nữ có thai, bà mẹ cho con bú... cần bổ sung chất sắt (dưới dạng thuốc), ăn thay đổi những thực phẩm giàu chất sắt như thịt, cá, gan, huyết heo, bò, lòng đỏ trứng, sò huyết, đậu ván, đậu đen, đậu xanh, đậu nành, rau muống, rau dền, nấm mèo...

BS Trương Văn Anh Tuấn

Thiếu máu do thiếu sắt

Kết quả điều tra trong toàn quốc do Viện Dinh dưỡng quốc gia và UNICEF thực hiện trong năm 1995 cho biết, 60% trẻ dưới 2 tuổi và 45,3% trẻ dưới 5 tuổi bị thiếu máu do thiếu sắt; hơn 40% phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) và 52,7% thai phụ cũng bị thiếu máu do thiếu sắt. Thế nhưng trong cộng đồng có rất ít người biết mình bị mắc bệnh và số người tích cực đến cơ sở y tế điều trị lại càng hiếm hoi. Nguyên nhân là do biểu hiện của bệnh không gây chú ý nhiều như cái bướu cổ to do thiếu iod hoặc tình trạng mắt khô, mù mắt do thiếu vitamin A. Thiếu máu do thiếu sắt là một trong những bệnh thiếu vi chất dinh dưỡng, thường gọi là "nạn đói tiềm ẩn" vì thiếu nhưng người ta không hay biết.

Thiếu máu do thiếu sắt diễn ra từ từ, thầm lặng, không rõ rệt. Ngoài một số biểu hiện đã kể trong trường hợp cụ thể trên, lòng bàn tay, niêm mạc mắt của bệnh nhân trắng nhợt, da khô, móng tay, móng chân mất độ bóng và có hình dẹt... Người bệnh thiếu máu thường mệt mỏi, hay cáu gắt, khả năng lao động giảm. Trẻ em kém phát triển cả về thể chất và tinh thần, thường nhận thức chậm, nhớ kém, hay ngủ gật. Phụ nữ có thai dễ gặp tai biến khi sinh đẻ như đẻ non, đẻ con nhỏ yếu, dễ bị băng huyết gây nguy hiểm đến tính mạng mẹ và con. Người bị thiếu máu nặng thường có các triệu chứng như: hoa mắt, chóng mặt, khó thở khi lao động gắng sức và dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn.

Có nhiều nguyên nhân gây ra thiếu máu do thiếu sắt, phổ biến là hằng ngày thức ăn không cung cấp đủ chất sắt cho cơ thể. Một nguyên nhân phổ biến thường thấy ở Việt Nam là nhiễm giun sán kéo dài, đặc biệt là nhiễm giun móc. Ngoài ra còn có một vài nguyên nhân khác ít gặp hơn như hấp thu sắt kém, chảy máu đường tiêu hoá rỉ rả lâu ngày do viêm, loét, ung thư... Để định bệnh chính xác, bác sĩ thường cho làm xét nghiệm định lượng huyết sắc tố (Hemoglobin – Hb).

Trong cộng đồng có một số đối tượng dễ bị thiếu máu do thiếu sắt như:

– Phụ nữ mang thai và các em gái tuổi dậy thì (11 – 14) do tăng nhu cầu tăng sử dụng sắt để tạo máu.

– Phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ, do hàng tháng mất máu do kinh nguyệt.

– Trẻ ở độ tuổi ăn dặm, từ 5-6 tháng trở lên do không cho ăn dặm đúng cách.

– Người do ăn uống kiêm khem, không đủ chất; người ăn chay trường, không ăn thịt cá...

Phòng ngừa:

– Ăn uống đủ chất, đặc biệt là thực phẩm giàu chất sắc như đạm động vật (thịt, cá, huyết, gan, trứng...). Rau dền, các loại đậu và rau củ khác cũng có nhiều chất sắt nhưng khó hấp thụ hơn đạm động vật. Vitamin C trong các loại rau củ giúp cho việc hấp thụ sắt dễ dàng hơn.

– Cần cho trẻ em ăn đủ 4 nhóm thực phẩm (đạm, đường, dầu, mỡ và rau trái tươi) lưu ý phải ăn cả phần xác của thịt cá... vì nước hầm xương, nước luộc thịt không chứa đạm và hầu như không có sắt.

– Tẩy giun định kỳ 6 tháng một lần cho trẻ trên 2 tuổi.

– Đối với thai phụ và các em gái trong tuổi dậy thì, ngoài việc tăng cường thức ăn giàu sắt cần chủ động dùng thêm viên sắt hoặc các thuốc có chứa sắt vì hiện nay, bữa ăn hàng ngày của chúng ta hầu như chưa cung cấp đủ sắt cho 2 đối tượng có nhu cầu cao này.

Tuy nhiên dư sắt trong cơ thể cũng không tốt vì thế nếu cần uống viên sắt dài ngày thì nên hỏi ý kiến bác sĩ.

BS Đào Thị Yến Thủy (Trung tâm Dinh dưỡng trẻ em)

Ổ loét da do máu kém lưu thông

Có nhiều nguyên nhân gây ra ổ loét da rộng. Tuy nhiên, loét da kinh niên tại mắt cá chân ở người già, ở phụ nữ bị giãn tĩnh mạch (hay gặp ở người già, phụ nữ mang thai hoặc sinh nhiều) thường do máu kém lưu thông, máu không chuyển với tốc độ đủ nhanh xuống chân. Những vết loét này có khi rất lớn. Da xung quanh nơi loét có màu xanh đậm và rất mỏng. Chân thường bị phù.

Những vết loét này rất lâu khỏi nếu không được chăm sóc kỹ. Điều quan trọng là giữ cho chân ở vị trí cao, càng lâu càng tốt. Khi ngủ nên kê chân lên gối. Ban ngày, khi nằm nghỉ, cứ 15 – 20 phút lại để chân gác cao. Đi lại sẽ giúp cho máu lưu thông tốt, còn đứng yên một chỗ hoặc ngồi bỏ thõng chân rất có hại.

Đắp gạc tẩm nước muối pha loãng lên chỗ loét, một muỗng cà phê muối hoà với 1 lít nước đun sôi. Băng lỏng chỗ đau bằng vải màn đã khử trùng hay băng vải sạch. Giữ chỗ đau thật sạch.

Quấn băng hay đi bít tất có thun vào chân có tĩnh mạch bị giãn, sau khi vết loét khỏi, vẫn tiếp tục quấn băng và giữ cho chân cao. Cần tránh gãi hay làm xây xước chỗ sẹo còn non.

Muốn phòng loét da:

– Phải chăm sóc sớm nơi có tĩnh mạch bị giãn (giãn tĩnh mạch là tĩnh mạch bị căng phồng, ngoằn ngoèo và thường bị đau).

– Không nên đứng hoặc ngồi thõng chân lâu. Nếu ngồi hay đứng lâu, cứ nửa giờ đồng hồ nên nằm để chân cao trong ít phút.

– Khi ngủ cũng nên kê chân lên một cái gối. Dùng bít tất thun hay băng đàn hồi để giữ chặt tĩnh mạch. Đêm nên cởi băng ra.

Bệnh suy giãn tĩnh mạch mạn tính

Suy tĩnh mạch mạn tính ở chân là tình trạng hệ tĩnh mạch không hoàn thành chức năng chuyển máu về tim.

Triệu chứng đầu tiên là phù hai chân, không đau. Triệu chứng phù giảm hay mất vào ban đêm, khi nằm gác chân lên cao. Kèm theo phù, bệnh nhân có cảm giác nặng ở hai chân. Giai đoạn nặng hơn, bệnh nhân thấy đau chân, cứng các khớp. Cuối cùng dẫn đến loét chân.

Khi thăm khám có các dấu hiệu sau:

– Giãn tĩnh mạch ở chân: Những đoạn tĩnh mạch nổi lên ở chân, giãn, ngoằn ngoèo.

– Da chân đổi màu, rối loạn dinh dưỡng.

– Sờ thấy những đoạn tĩnh mạch cứng, gồ ghề dưới da.

Bệnh này phụ nữ bị nhiều hơn năm, đặc biệt là phụ nữ có thai, sinh sản nhiều lần.

Nguyên nhân: Làm việc phải đứng nhiều (nấu bếp, thợ đứng máy, giáo viên); béo phì, táo bón thường xuyên; sử dụng nhiều loại thuốc như thuốc ngừa thai...; di truyền.

Phòng ngừa:

– Khi nằm gác chân lên cao.

– Tránh đứng, ngồi quá lâu một chỗ.

– Tránh béo phì.

– Nên ăn nhiều rau, trái cây để tránh táo bón.

– Mang băng thun, vớ thun để băng ép chân.

Khi có các triệu chứng về suy tĩnh mạch mạn tính, nên đến bác sĩ khám và điều trị. Đi bộ có thể chữa được bệnh viêm mạch ngoại biên

Tê ngứa, lạnh hoặc đau cẳng chân khi đi vài chục mét là vài triệu chứng thường gặp của bệnh viêm mạch ngoại biên – chứng bệnh có thể đe doạ tính mạng, thường thấy ở người trên 50 tuổi, hút nhiều thuốc lá. Trong bệnh này, các nhánh động mạch ngoại biên tắc nghẽn, tuần hoàn máu ngưng trệ, cẳng chân hoặc cả chân có thể bị hoại thư và phải cắt bỏ; một số mạch máu ở não, tim cũng có thể tắc nghẽn gây nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ.

Nếu bệnh được phát hiện sớm thì đi bộ là phương pháp điều trị được ưa thích nhất và rất hiệu quả. Đi bộ sẽ làm cho các mạch máu mới phát triển quanh mạch máu bị tắc nghẽn, khi chúng đủ sức thay thế mạch máu tắc nghẽn thì triệu chứng đau sẽ biến mất. Lúc đầu, đi bộ sẽ gây đau, bệnh nhân cần nghỉ cho bớt đau rồi tiếp tục đi những đoạn ngắn. Làm đều đặn như vậy sẽ dần dần đi được xa mà không còn đau nữa. Để có một hệ thống mạch máu khỏe mạnh, mỗi ngày chúng ta nên đi bộ khoảng 5 km.

Nhiễm trùng huyết

Nhiễm trùng huyết là một bệnh nhiễm trùng nặng, dễ đưa đến tình trạng sốc nhiễm trùng và tử vong.

Nhiễm trùng huyết là trong dòng máu có vi khuẩn. Vi khuẩn có thể sinh sôi nhanh chóng từ ổ nhiễm trùng tại tim, mạch máu như viêm nội tâm mạc, viêm tĩnh mạch hoặc từ ổ nhiễm trùng

ở ngoài mạch máu như nhiễm trùng đường tiêu hoá, rồi đi vào máu. Triệu chứng:

– Sốt cao 39-40 độ C, có hoặc không kèm theo lạnh run, riêng trẻ sơ sinh, thân nhiệt có thể hạ xuống 35,5 – 36 độ C.

– Rối loạn tri giác, hôn mê.

– Nhịp tim tăng nhanh. Nếu nhiễm trùng nặng, mạnh nhanh, nhẹ, hạ huyết áp, có thể truỵ tim mạch.

– Thở nhanh; nếu nặng sẽ xuất hiện cơn ngưng thở, da tím tái.

– Có thể xuất hiện các nốt tử ban dưới dạng chấm hoặc đốm đỏ dưới da; trong trường hợp nhiễm trùng huyết do não mô cầu hoặc bầm máu do rối loạn đông máu, bệnh nhân có thể bị vàng da.

Các triệu chứng này có thể do vi khuẩn gây tổn thương trực tiếp lên một số cơ quan hay do các độc tố của vi khuẩn gây ra mà thường gặp là các trường hợp nhiễm trùng huyết do trực khuẩn gram.

Khi xét nghiệm công thức máu thì trong số lượng bạch cầu tăng, đặc biệt là bạch cầu đa nhân trung tính, do khi bị nhiễm khuẩn cấp tính cơ thể tăng sản xuất bạch cầu để bảo vệ cơ thể chống lại tình trạng nhiễm trùng. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp nhiễm trùng huyết, gram (-) bạch cầu lại giảm.

Một số xét nghiệm không thể thiếu là cấy máu, nghĩa là lấy máu bệnh nhân cho vào môi trường nuôi dưỡng để phân lập tác nhân gây bệnh. Cấy máu sẽ giúp xác định đúng vi khuẩn gây bệnh và dựa vào độ nhạy cảm của vi khuẩn đối với kháng thể để lựa chọn kháng sinh thích hợp. Không ít trường hợp phải cấy máu liên tiếp nhiều lần mới phân lập được vi khuẩn, nhất là các trường hợp trước đó đã dùng kháng sinh. Ngoài ra, để tìm tác nhân gây bệnh, bác sĩ sẽ cho chỉ định soi trực tiếp vi khuẩn, hoặc cấy dịch nơi ổ nhiễm trùng, cấy nước tiểu hoặc cấy phân trong trường hợp nhiễm trùng đường tiêu hoá.

Điều trị nhiễm trùng huyết:

– Dùng kháng sinh tiêm đường tĩnh mạch. Nếu là trường hợp vi khuẩn đã kháng thuốc, thường phải dùng phối hợp thêm 1 – 2 loại kháng sinh. Chọn lựa kháng sinh trị liệu ban đầu lúc đầu chưa có kết quả cấy máu thường dựa vào các biểu hiện lâm sàng.

– Dùng kháng sinh chống tụ cầu như Oxacillin, Vancomycin nếu có áp xe, viêm cơ...

– Dùng kháng sinh chống não mô cầu như Penicillin G,Cephalosporin thế hệ thứ 3 nếu có sốc kèm theo các nốt tử ban.

– Dùng kháng sinh chống vi khuẩn gram (-) như Cephalosporin thế hệ thứ 3 trong trường hợp nhiễm trùng đường tiêu hoá, tiêu chảy, tiêu đàm máu...

Khi có kết quả cấy máu và kháng sinh đó, bác sĩ sẽ tiếp tục dùng kháng sinh cũ hay thay kháng sinh mới tùy vào đáp ứng trên lâm sàng và độ nhạy cảm của vi khuẩn đối với kháng sinh.

Nếu bệnh nhân bị truỵ mạch thì hồi sức chống sốc, rối loạn đông máu thì truyền máu, truyền các yếu tố chống đông máu...

BS Bạch Văn Cam (Bệnh viện Nhi đồng I)

Xơ vữa động mạch

Bình thường, lớp trong thành mạch máu luôn luôn trơn láng, đàn hồi tốt giúp sự lưu thông thông suốt của máu mang dưỡng khí và các chất dinh dưỡng đến nuôi các cơ quan trong cơ thể. Càng lớn tuổi, mỡ và các chất sẽ lắng đọng dần dần ở thành mạch tạo thành các mảng xơ

vữa. Quá trình lắng đọng này tăng dần làm lòng mạch bị chít hẹp dẫn đến tắc mạch. Đây là một quá trình bệnh lý tiến triển chậm, thời gian để hình thành mảng xơ vữa kéo dài nhiều năm. Xơ vữa động mạch dẫn đến nhiều biến chứng, đặc biệt là nhồi máu cơ tim và đột quị.

Cao huyết áp sẽ đẩy nhanh quá trình xơ vữa động mạch, khi huyết áp cao tạo một áp lực lớn trên thành động mạch, lớp cơ thành động mạch sẽ trở nên cứng và dày. Lòng mạch nhỏ lại. Lòng mạch hẹp sẽ làm huyết áp tăng cao thêm, mỡ tích tụ nhiều hơn ở thành mạch, tất cả tạo thành vòng xoắn làm tăng các biến chứng tim mạch, thận và đột qụy.

Hút thuốc lá sẽ kích thích làm tim đập nhanh, lòng mạch co hẹp lại, máu dễ bị đông thành cục, đẩy nhanh quá trình xơ vữa động mạch. Cholesterol cao trong máu sẽ đọng lại ở thành động mạch gây xơ vữa động mạch. Ở cơ thể béo phì, tim phải làm việc nhiều hơn, dễ bị cao huyết áp hơn và thường kèm theo cholesterol máu cao dễ bị xơ vữa động mạch hơn.

Cuộc sống căng thẳng nhiều lo lắng cơ thể sẽ phản ứng lại bằng cách tăng nhịp tim, huyết áp tăng lên, xơ vữa động mạch dễ hơn.

BS Lê Thị Tuyết Phượng

Mỡ trong máu

Rối loạn chuyển hoá chất mỡ (dân gian gọi là mỡ trong máu) là một nguy cơ đối với tim mạch nhưng có thể phòng ngừa và ngăn chặn được.

Lipid (chất mỡ) là một trong những chất cơ bản cần thiết để cung cấp năng lượng cho hoạt động của cơ thể, cùng với chất đạm (protein) và chất đường (gluxit). Rối loạn chuyển hoá chất đạm gây suy dinh dưỡng, rối loạn chuyển hoá chất đường, bột gây nên bệnh tiểu đường còn rối loạn chuyển hoá chất mỡ thì gây bệnh tăng cholesterol máu hay cao mỡ trong máu, là yếu tố quan trọng gây ra mảng xơ vữa làm nghẹt mạch máu.

Các chất mỡ có trong thành phần thức ăn (mỡ heo, mỡ bò, mỡ gà, da gà, da heo, lòng đỏ hột vịt, hột gà, gan, lòng heo, bò...) được hấp thụ qua ruột và đưa vào máu để lưu thông trong máu dưới dạng đặc biệt gọi là lipoprotein chứa chất mỡ (như cholesterol và triglicerid), lưu thông trong máu, đưa các chất mỡ cho các mô, cơ bắp sử dụng để tạo ra năng lượng cần thiết cho hoạt động như co cơ, vận động... Hoặc nó chuyển hoá thành mô mỡ đọng lại dưới da (như ở bụng, mông, đùi...). Chúng là mỡ dự trữ sẽ dùng tới trong trường hợp nguồn cung cấp từ thức ăn không có chất mỡ nào nữa, ví dụ như khi kiêng ăn, nhịn đói. Sự tồn tại của chất mỡ trong máu là điều bình thường; hốt hoảng vì "mỡ trong máu", "mỡ lộn máu", "cơ mỡ trong máu" là không đúng. Nhưng nếu mỡ trong máu cao quá mức bình thường thì nó sẽ trở thành yếu tố nguy cơ gây ra các bệnh tim mạch. Cũng cần nói rõ là người có chỉ số mỡ trong máu cao dễ bị bệnh tim mạch, nhưng người có chỉ số này bình thường cũng không chắc là không mắc bệnh tim mạch.

Mỡ trong máu có nhiều loại khác nhau và chỉ có xét nghiệm đầy đủ mới biết được. Thầy thuốc sẽ tùy theo kết quả xét nghiệm để quyết định việc chọn thuốc điều trị và cho lời khuyên thích hợp về chế độ ăn uống, kiêng cữ. Bệnh nhân không nên tự ý đi làm xét nghiệm và cũng không cần thiết phải đi kiểm tra quá nhiều lần và thời gian quá ngắn (như cách vài ngày). Khi có kết quả, nên tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị, không quá sợ hãi cũng không quá chủ quan.

Chế độ điều trị không dùng thuốc bao gồm luyện thể dục, dưỡng sinh, cữ thuốc lá, ăn kiêng, tránh mỡ động vật, tránh ăn lòng đỏ hột gà, hột vịt, tránh ăn da gà, da heo, lòng heo, lòng bò. Người lớn tuổi không nên ăn ngọt nhiều, việc kiêng cữ là việc làm lâu dài gần như suốt cuộc đời, tốt nhất nên luyện thành thói quen ăn uống.

Thuốc điều trị: có hai nhóm chính là nhóm Statin (như Simvastatin, Pravastatin, Flucvastatin...) và nhóm Fibrat (như Fenofibrat, Chlofibrat, Gemfibrozil). Việc lựa chọn thuốc thích hợp cho từng bệnh nhân cũng như liều lượng, thời gian uống và cách theo dõi phải do thầy thuốc quyết định.

Nhiều thuốc dân gian, thuốc y học cổ truyền như dầu cá, tỏi, trà xanh, ngưu tất... cũng có thể giúp ích nhưng không được chứng minh một cách khoa học, liều lượng thường tùy tiện, kết quả không khẳng định được ở mọi bệnh nhân.

Tóm lại: Rối loạn chuyển hoá mỡ, thường gọi là mỡ trong máu, là một yếu tố nguy cơ góp phần gây ra bệnh tim mạch, yếu tố này có thể chẩn đoán được sớm, qua đó điều chỉnh bằng chế độ sinh hoạt, thói quen ăn uống và những biện pháp này không đủ điều chỉnh các rối loạn mỡ trong máu, thầy thuốc sẽ cân nhắc lựa chọn một thứ thuốc hạ mỡ trong máu thích hợp nhất cho bệnh nhân.

Đừng quên rằng du có uống thuốc, việc luyện tập kiêng cữ là biện pháp quan trọng, lâu dài nhất và cũng đỡ tốn kém nhất.

PGS Đặng Vặn Phước (Đại học Y dược TP HCM)

Bệnh cao huyết áp

Cao huyết áp (HA) là một bệnh khá nguy hiểm, gây nhiều tai biến nặng nề, lại khá phổ biến trong cộng đồng; nhưng có đến 68% bệnh nhân không biết mình mắc bệnh.

Về định nghĩa và phân loại độ cao HA, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có bảng sau:

Phân loạiSố HA trên (mmHg)Số HA dưới (mmHg)

Số HA tốt nhất< 120< 80

Số HA bình thường< 130< 85

Bình thường cao130 – 13985 – 89

Cao HA độ I (nhẹ)140 – 15990 – 99

(nhóm phụ)140 – 14990 – 94

Cao HA độ II (trung bình)160 – 179100 – 109

Cao HA độ III (nặng)>=180>=110

Cao HA số HA trên đơn độc>=140< 90

(nhóm phụ)140 – 149< 90

Lưu ý:

– Khi số HA trên và dưới thuộc hai độ khác nhau thì việc phân loại bệnh dựa vào độ cao hơn.

– Để đánh giá mức độ nguy hiểm của bệnh, người ta không chỉ dựa vào chỉ số HA, độ cao HA mà còn dựa vào các yếu tố đi kèm (như mắc bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch hay có tổn thương nội tạng do cao HA gây ga...), dựa cả vào điều kiện kinh tế, xã hội, sắc tộc, vị trí địa lý...

Huyết áp bình thường của người Việt Nam là 120/80 mmHg, nói tắt là 12/8 (12 là số HA trên, 8 là số HA dưới). Gọi là cao HA khi số HA trên cao hơn 14 hoặc số HA dưới cao hơn 9.

Tình trạng số HA trên tăng cao dễ gây tai biến nhất thời như đứt mạch máu não, suy tim cấp, nhồi máu cơ tim; việc số HA dưới tăng cao thường gây tác hại lâu dài như lớn tim, rồi suy tim, suy thận mạn...

Khi số HA lên xuống chút đỉnh, một số người rất lo sợ; thật ra, HA là con số động, thay đổi nhiều lần trong ngày, cao nhất vào buổi sáng, thấp nhất vào ban đêm lúc ngủ. Người già HA cao hơn 10– 20 mmHg, nam có HA cao hơn nữ 3– 5 mmHg. Khi ăn mặn, vận động thể lực, lao động trí óc quá mức hoặc thần kinh căng thẳng, HA đều tăng lên đôi chút nhưng không nguy hiểm. Hiện có khoảng 12% người trên 15 tuổi mắc bệnh, tỷ lệ này tăng lên theo độ tuổi (ở tuổi 45 là 14%, ở tuổi 65 là 33%).

Người cao HA nếu không được điều trị đúng khi có những đột biến như trên, HA sẽ tăng cao thêm, có thể gây tai biến nặng nề. Đáng ngại nhất là có những người không biết mình cao HA vì không thấy nhức đầu chóng mặt, một số người phát hiện bệnh quá muộn khi đã có tai biến xảy ra.

Cách phát hiện bệnh sớm

Không dễ dàng và nhanh chóng phát hiện bệnh cao HA; có thể đến một cơ sở khám chữa bệnh gần nhà để xác định. Một số dấu hiệu thường gặp là:

– Nhức đầu phía sau gáy hay trước trán, thường thường vào buổi sáng, đôi khi kéo dài cả ngày.

– Chóng mặt, cảm giác đi đứng không vững, hơi nặng đầu.

– Mệt, thấy nặng ở ngực và hơi khó thở.

– Yếu liệt tay chân từ vài giây đến vài phút.

– Chảy máu cam: Máu chảy nhỏ giọt, nhanh, nhiều (do áp lực máu cao làm vỡ mạch máu nhỏ ở niêm mạc mũi). Nếu cao HA không được phát hiện và chữa trị thì hiện trạng chảy máu cam tái phát nhiều lần.

Các dấu hiệu này chỉ là gợi ý vì đôi khi HA lên rất cao, ví dụ như 20/12 nhưng người bệnh hoàn toàn không thấy bất kỳ dấu hiệu nào và cho rằng không cần dùng thuốc. Điều này hoàn toàn sai vì nếu HA cao như vậy, tai biến chắc chắn sẽ xảy ra và thường nguy hiểm đến tính mạng.

Điều trị tăng huyết áp

Khi biết mắc bệnh, cần hỏi rõ bác sĩ cả chỉ số huyết áp trên và dưới, những tác hại lên cơ thể, cách dùng thuốc, cách ăn uống và sinh hoạt để đề phòng một số tác hại thường gặp sau:

– Đứt mạch máu não (tai biến mạch máu não): thường xuất hiện trên người đang làm việc, đột nhiên té quỵ, có thể đưa đến hôn mê và tử vong, nhẹ hơn là liệt nửa người và tàn phế cả đời.

– Suy tim cấp dẫn đến phù phổi cấp, có thể tử vong nếu không chữa trị kịp thời.

– Lớn tim sau đó là suy tim, mới đầu là cảm giác mệt, phải dừng lại thở khi lên xuống lầu, nặng hơn là phù chân, báng bụng, không làm việc cũng mệt.

– Nhồi máu cơ tim dễ đưa đến tử vong.

– Suy thận mạn với các biểu hiện đầu tiên là tiểu nhiều, tiểu đêm.

– Tác hại lên mắt: Loá mắt, gây mù, ruồi bay trước mặt, đôi khi mù tạm thời.

Bệnh cao huyết áp phải chữa trị lâu dài. Việc điều trị gồm hai phần là dùng thuốc và chế độ ăn uống, sinh hoạt. Nhiều trường hợp huyết áp ổn định, bệnh nhân được tạm ngưng thuốc nhưng vẫn phải tiếp tục chữa trị qua chế độ ăn uống, sinh hoạt. Trong quá trình chữa trị, người bệnh thường mắc 3 sai lầm sau:

– Tự sử dụng thuốc hạ áp: Có nhiều trường hợp sau khi tự dùng thuốc phải đưa đến bệnh viện cấp cứu vì thuốc không hợp với cơ thể.

– Chỉ chữa bệnh khi huyết áp tăng cao và ngừng thuốc khi huyết áp trở về bình thường. Cách chữa này có lúc làm cho huyết áp lên rất cao, có lúc lại xuống quá thấp và xuất hiện sớm các tác hại lên não, tim, thận.

– Không tái khám để đánh giá lại tình trạng bệnh và uống lâu dài một toa thuốc cũ có thể không còn phù hợp với tình trạng bệnh hiện tại.

Nhiều người nghĩ rằng trị bệnh cao huyết áp là để hạ huyết áp. Hiểu như thế là đúng, nhưng chưa đủ và chưa chính xác vì mục tiêu của điều trị cao huyết áp là đưa chỉ số huyết áp về bình thường, nhưng không phải là hạ càng thấp càng tốt. Sau đó, cần duy trì huyết áp ổn định, đồng thời ngăn ngừa các biến chứng và giảm thiểu các yếu tốt nguy cơ của bệnh cao huyết áp.

Trong quá trình chữa trị, cần thực hiện 6 nguyên tắc:

1. Điều trị không dùng thuốc phải là bước điều trị đầu tiên trong mọi trường hợp, dù là cao huyết áp nhẹ hay nặng, đã có biến chứng hay chưa có biến chứng.

2. Dùng đúng thuốc: Tùy theo đặc điểm riêng từng bệnh nhân, bác sĩ sẽ chọn lựa thuốc hạ huyết áp thích hợp.

3. Nếu huyết áp thường xuyên cao, người bệnh cần phải theo dõi hằng ngày để bác sĩ kiểm soát và đưa huyết áp về chỉ số thích hợp, an toàn. Bác sĩ sẽ cho thuốc để hạ huyết áp dần dần qua nhiều ngày, tránh hiện tượng hạ huyết áp đột ngột gây biến chứng thiếu máu não, thiếu máu tim. Nếu bệnh nhân tự uống thuốc làm huyết áp hạ quá mức, họ có thể gặp những tai biến trầm trọng, phải đến bệnh viện cấp cứu.

4. Dùng thuốc đều đặn và liên tục, không ngưng thuốc đột ngột để tránh tình trạng phản ứng dội (huyết áp tăng vọt lên rất cao). Hiện tượng này dễ gây nhiều tai biến như đứt mạch máu não, nhồi máu cơ tim... Khi huyết áp ổn định, bác sĩ thường giảm liều thuốc dần trong nhiều ngày, người bệnh nên chấp hành tốt.

5. Trong quá trình điều trị, người bệnh phải điều chỉnh các yếu tố nguy cơ dễ dẫn đến cao huyết áp, đặc biệt là chữa bệnh tiểu đường và bệnh mỡ trong máu cao.

6. Điều trị không dùng thuốc là bước điều trị quan trọng gồm 4 điều sau đây:

– Giảm cân bằng chế độ ăn uống đối với người bệnh béo phì.

– Trong chế độ ăn uống cần lưu ý các điểm sau:

+ Nên ăn nhạt, hạn chế ăn muối, mỗi ngày ăn không quá 1-1,5 muỗng cà phê muối (tương đương 5 – 8 gam muối).

+ Nên cùng thức ăn có nhiều kali, canxi, manhê để hoạt động của hệ tim mạch được ổn định, (kali có nhiều trong chuối, nước dừa, đậu trắng... canxi có nhiều trong sữa, tôm, cua... manhê có nhiều trong thịt...).

+ Nên ăn chất đạm có nguồn gốc từ cá và thực vật, không ăn quá ngọt, hạn chế ăn mỡ động vật và dầu dừa, tốt nhất là dùng dầu ôliu hay dầu hướng dương.

+ Nên ăn nhiều rau cải, trái cây để cung cấp nhiều chất khoáng, vitamin và chất xơ.

+ Hạn chế uống rượu bia (kể cả khi huyết áp ổn định).

– Rèn luyện thân thể thường xuyên: Tập thể dục đều đặn, mỗi ngày khoảng 30-45 phút. Tuyệt đối không gắng sức, nên dùng các loại hình nhẹ nhàng như dưỡng sinh, đi bộ, chạy bộ...

– Tập thói quen tốt: Sinh hoạt điều độ, ngưng hút thuốc lá, tránh xúc động, lo âu thái quá...

– Dùng thuốc hạ huyết áp phải do bác sĩ chỉ định, không nên tự mua thuốc uống, tránh gây hại cho người bệnh.

BS Phan Hữu Phước

Tăng huyết áp giả tạo

Các triệu chứng của bệnh cao huyết áp còn có thể gặp trong nhiều bệnh khác. Cần lưu ý rằng khi chỉ số huyết áp tăng cao có thể do cao huyết áp thực sự nhưng cũng có một số trường hợp là tăng huyết áp giả tạo.

Cao huyết áp giả tạo thường do 2 nguyên nhân sau:

– Cảm giác hồi hộp làm cho tim đập nhanh và huyết áp tăng lên. Cao huyết áp giả tạo thường đi kèm với nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, có cảm giác hồi hộp... Nhiều trường hợp số huyết áp tăng lên đến 160-180 mmHg nhưng hiếm khi tăng lên đến 200 mmHg. Sau khi trấn an và nghỉ ngơi khoảng 30 phút thì huyết áp và tim trở lại mức bình thường. Một số trường hợp bệnh nhân phải nghỉ ngơi vài giờ thì số huyết áp trên mới trở lại bình thường. Trong một vài trường hợp khó khăn hơn, phải theo dõi huyết áp tại nhà mới xác định được đó là tăng huyết áp giả tạo.

– Xơ cứng động mạch cách tay làm cho số huyết áp trên đo được cao hơn thực tế. Hiện tượng này có thể gặp ở 10% người già. Trong trường hợp này, bác sĩ sẽ cho thực hiện một số biện pháp đặc biệt để xác định tình trạng tăng huyết áp giả tạo ở người cao tuổi.

Việc không xác định được tăng huyết áp giả tạo mà điều trị như cao huyết áp thật sự có thể gây nguy hiểm cho người bệnh như gây tình trạng huyết áp thấp hoặc hạ huyết áp tư thế, làm người bệnh té ngã đột ngột, có thể bị chấn thương sọ não... Do vậy khi đo huyết áp tại nhà, nếu thấy chỉ số huyết áp tăng cao, người bệnh không nên tự dùng thuốc mà phải đến bác sĩ khám bệnh để xác định có phải là cao huyết áp thực sự hay không?

BS Phan Hữu Phước (BV Nguyễn Trãi)

Biến chứng của bệnh cao huyết áp

Bệnh cao huyết áp có thể phân làm những dạng sau: cao huyết áp nhẹ, cao huyết áp trung bình, cao huyết áp nặng và cao huyết áp ác tính. Trong đó cao huyết áp ác tính nguy hiểm nhất và 80% người mắc tử vong trong một năm. Người bị cao huyết áp có thể gặp các biến chứng nguy hiểm, nhưng không phải tất cả các trường hợp đều dẫn đến biến chứng. Biến chứng bệnh cao huyết áp xảy ra ở người bệnh tùy thuộc vào dạng bệnh và phương pháp điều trị. Nếu được điều trị tốt, họ sẽ giảm và phòng ngừa được hầu hết biến chứng, điển hình là tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim giảm hơn một nửa. Ngày nay, người ta nhận thấy có hai dạng biến chứng sau đây:

Biến chứng do tiến triển của bệnh thường xuất hiện ở tim, thận, não và mạch máu.

Biến chứng lên tim: Nếu cao huyết áp kéo dài không được điều trị đúng, bệnh nhân sẽ bị lớn tim, rồi suy tim, làm cho chức năng tống máu của tim bị suy giảm. Bệnh nhân thường thấy mệt khi vận động; hoặc khi làm việc hơi nhiều, người bệnh thường xuyên thấy thiếu hơi thở, thỉnh thoảng phải lấy hơi lên. Nếu không được điều trị, tình trạng suy tim sẽ nặng dần, người bệnh không chỉ thấy mệt khi vận động, khi gắng sức mà còn thấy mệt và khó thở cả khi nghỉ ngơi.

Cần lưu ý là khi bị lớn tim, các biến chứng khác như thiếu máu cơ tim, rối loạn nhịp tim, suy thận và đột tử... sẽ dễ dàng xuất hiện hơn.

Biến chứng lên thận: Thường là suy thận với biểu hiện trên giai đoạn đầu là tiểu đêm và tiểu

nhiều lần trong ngày; giai đoạn sau là phù chân, mặt; tình trạng thiếu máu tăng dần, da xanh, niêm mạc nhợt nhạt... Khi đã suy thận, nếu huyết áp được duy trì ở mức độ thích hợp với cơ thể người bệnh, có thể làm cho tiến trình suy thận chậm lại. Ở thể cao huyết áp thể nhẹ và vừa, nếu bệnh nhân được điều trị ổn định sẽ hiếm khi bị suy thận. Sau 4 năm bị cao huyết áp, trên 80% trường hợp vẫn có chức năng thận bình thường.

Biến chứng lên mạch máu: Cao huyết áp tạo thuận lợi cho sự tiến triển của bệnh xơ vữa động mạch, làm hỏng thành mạch máu. Tình trạng này có thể xảy ra ở các động mạch lớn ở bụng, cổ hoặc chân. Khi tình trạng xơ vữa động mạch kéo dài, có đến 80% trường hợp hư hỏng động mạch vành (động mạch đến nuôi tim) và 20% xảy ra tai biến mạch vành trong vòng 10 năm. Nếu hư hỏng các mạch máu nhỏ như mạch máu ở đáy mắt thì sự xơ vữa sẽ tiến triển qua nhiều giai đoạn, với những biểu hiện như loá mắt, mây mù, mờ mắt. Những tai biến này khi đã xuất hiện, dù bệnh cao huyết áp có được điều trị tốt thì mạch máu đã bị xơ vữa cũng khó hồi phục.

Biến chứng trên não: Dạng thường gặp là tai biến mạch máu não với những biểu hiện như liệt nửa người, méo miệng, nói đớ, ăn sặc, tiêu tiểu không tự chủ. Đôi khi có động kinh, nếu nặng bệnh nhân sẽ hôn mê và tử vong.

Biến chứng do điều trị thường là do bệnh nhân tự mua thuốc về điều trị lấy, trường hợp do thầy thuốc thì rất hiếm gặp.

– Nếu dùng thuốc không hiệu quả (vì chọn loại thuốc không đúng, dùng thuốc không đủ liều...) thì huyết áp vẫn cao, không về bình thường được. Có khoảng 50% trường hợp cao huyết áp có mức huyết áp không được giữ ổn định, vì thế chúng ta chỉ phòng ngừa được một phần biến chứng của bệnh cao huyết áp.

– Việc dùng thuốc quá mức cần thiết sẽ gây tụt huyết áp, hoặc hạ huyết áp tư thế như ở người cao tuổi.

– Nếu thuốc có tác dụng phụ, bệnh nhân có thể có những triệu chứng như mệt mỏi, hồi hộp, phù chân, vọp bẻ (chuột rút)... Tuy nhiên, với cùng một loại thuốc, bệnh nhân này có thể gặp tác dụng phụ còn bệnh nhân khác thì không, vì cơ thể từng bệnh nhân có sự đáp ứng thuốc khác nhau.

BS Phan Hữu Phước

Cơn đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim

Trường hợp 1: Bệnh nhân nam 61 tuổi nhập viện trong tình trạng toàn thân tím tái, ngưng tim, ngưng thở, được cấp cứu rất tích cực nhưng ông ta đã tử vong một giờ sau đó. Khai thác lại bệnh sử, được biết bệnh nhân bị cơn đau thắt ngực ở vùng ngực trái. Hai ngày trước đó, ông tự mua thuốc uống, thấy có đỡ nên không nhập viện. Ngày hôm sau, bệnh nhân lại đau nhói ở ngực khi đang nằm nghỉ, người lạnh toát, da tím tái, ngưng thở. Lúc đó người nhà mới đưa vào viện.

Trường hợp 2: Bệnh nhân nam 58 tuổi đang ngồi ăn cơm bỗng thấy đau nhói như có ai bóp chặt vào vùng ngực trái, muốn ngất xỉu. Bệnh nhân được đưa vào bệnh viện ngay và đã hồi phục sau một tuần điều trị.

Cả hai trường hợp trên đây đều được chẩn đoán là nhồi máu cơ tim. Và một trong những nguyên nhân làm tử vong trong trường hợp đầu là do nhập viện quá trễ.

Đây là trường hợp cấp cứu nội khoa nặng do động mạch nuôi tim bị tắc lại gây thiếu máu nuôi ở một cùng cơ tim làm hoại tử vùng này. Nguyên nhân thường gặp là do xơ cứng động mạch.

Các yếu tố dễ gây nhồi máu cơ tim đã được chẩn đoán là: thiếu máu cơ tim, cao huyết áp, tiểu đường, rối loạn mỡ trong máu, nghiện rượu, béo phì, hút thuốc lá nhiều...

Biểu hiện của cơn nhồi máu cơ tim chủ yếu là cơn đau thắt ở vùng ngực trái, đau muốn tắt thở, đau như có ai bóp chặt vào quả tim mình, đau có thể lan lên vai, lan ra sau lưng, lan ra cánh tay trái. Cơn đau kéo dài trên 15 phút mà không giảm sau nghỉ ngơi và điều trị giãn mạch đơn thuần. Lúc này nếu được nhập viện, bệnh nhân sẽ được đo điện tâm đồ và trên điện tâm đồ sẽ có những hình ảnh xác định bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim. Đồng thời, nếu lấy máu làm xét nghiệm sẽ thấy men tim tăng lên rất cao.

Thông thường, bệnh nhân nhồi máu cơ tim không được điều trị kịp thời sẽ gây tử vong vì các biến chứng sau đây:

1. Chết đột ngột vì ngưng tim, vỡ tim.

2. Sốc tim gây ngưng tim, ngưng thở đưa đến tử vong.

3. Rối loạn nhịp tim, nguy hiểm nhất là rung thất, vô tâm thu, tỷ lệ tử vong rất cao.

4. Suy tim cấp, phù phổi cấp.

Như vậy, khi có cơn đau thắt ở vùng ngực trái, đặc biệt ở những bệnh nhân có các yếu tốt nguy cơ kể trên, ta phải đến khám ngay tại các cơ sở y tế gần nhất để được cấp cứu kịp thời, tránh các biến chứng đáng tiếc xảy ra.

Đối với các bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ, phải có biện pháp phòng bệnh thích hợp hạn chế diễn tiến tới nhồi máu cơ tim:

1. Ăn kiêng, chống béo phì, ăn nhiều rau và trái cây, hạn chế mỡ động vật.

2. Phải bỏ thuốc lá ngay.

3. Điều trị tốt các bệnh cơ bản: cao huyết áp, tiểu đường.

4. Có chế độ làm việc, nghỉ ngơi hợp lý như:

– Không làm việc nặng đòi hỏi sự gắng sức qúa mức.

– Tránh tình trạng quá xúc động, vui quá hay buồn quá.

– Tập đều đặn các môn thể dục không đòi hỏi sự gắng sức như đi bộ, dưỡng sinh...

– Nghiêm cấm những môn thể thao gây nguy hiểm như leo núi, nhào lộn từ trên cao...

BS Lê Thị Tuyết Phượng (TT Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ y tế TP HCM)

Tai biến mạch máu não

Tai biến mạch máu não có tỷ lệ tử vong đứng hàng thứ ba trong các bệnh lý. Đó là tình trạng hư biến của não do nhiều nguyên nhân và được phân thành 2 nhóm chính là thiếu máu não và xuất huyết não.

Nguyên nhân:

– Thiếu máu não: Thường do xơ vữa động mạch. Những mảng xơ vữa làm hẹp lòng mạch máu, ngăn cản việc đưa máu lên não; những mảng xơ vữa bị bong ra kèm những cục máu di chuyển trong lòng mạch gây nên sự tắc mạch.

– Xuất huyết não (mạch máu trong não bị vỡ ra và chảy máu trong não): Do cao huyết áp (chiếm tỷ lệ cao nhất), vỡ túi phình mạch, vỡ dị dạng mạch máu não.

Xuất huyết não ít gặp hơn thiếu máu não nhưng tỉ lệ tử vong cao hơn. Những yếu tố và bệnh

lý có liên quan là cao huyết áp, tiểu đường, các bệnh về tim, tăng cholesterol máu và chứng béo phì...

Triệu chứng: Thường đột ngột nhức đầu, yếu, liệt nửa người, hoa mắt, đi lại chao đảo, có thể kèm với mất ngôn ngữ, mất ý thức... Tùy vào vùng não bị bệnh mà có những biển hiện lâm sàng khác nhau. Các triệu chứng có thể hồi phục hoặc nặng dần và tử vong.

Cần có chẩn đoán chính xác loại bệnh để có hướng điều trị tốt nhờ cộng hưởng từ hoặc chụp cắt lớp não.

Phòng ngừa tai biến mạch máu não:

– Chữa cao huyết áp: Khi huyết áp cao hơn 140/90 mmHg, nên có chế độ ăn thích hợp, luyện tập, giảm cân và dùng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ.

– Không hút thuốc lá: Vì thuốc lá làm tăng việc tạo mảng xơ vữa. Nicotine trong thuốc lá làm co thắt mạch máu dẫn đến tăng nhịp tim và tăng huyết áp. Carbonic trong khói thuốc lá đã thay thế chỗ của oxy trong máu làm giảm lượng oxy trong máu. Ngưng hút thuốc làm giảm nguy cơ tai biến mạch máu não.

– Chữa bệnh tim mạch: Các bệnh xơ vữa động mạch, thấp tim, bệnh tim tắt nghẽn, bệnh van tim, cơ tim... làm tăng nguy cơ bị tai biến mạch máu não.

– Nếu có cơn thiếu máu não thoáng qua (yếu 1/2 người hồi phục trong vòng một vài giờ và không để lại di chứng) nên đến gặp bác sĩ và dùng sspirin, sẽ làm giảm nguy cơ tai biến mạch máu não rất nhiều.

– Tiểu đường làm tăng nguy cơ tai biến mạch máu não gấp đôi và nhất là có thêm tăng huyết áp. Cần phải có chế độ ăn kiêng, luyện tập, kiểm tra cân nặng và dùng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ.

– Kiêng ăn mỡ, chất giàu cholesterol và dùng thuốc giảm cholesterol theo chỉ dẫn của bác sĩ khi có tăng LDL và HDL trong máu.

Khi bị tai biến mạch máu não cần có sự theo dõi và điều trị của bác sĩ chuyên khoa để giảm thiểu những yếu tố gây nguy hiểm đến tính mạng và nhanh chóng phục hồi sức khỏe, có khả năng tái nhập vào cuộc sống.

BS Nguyễn Thị ánh Hồng (Trung tâm Medic)

Oxy cao áp với bệnh thiếu máu cơ tim và thiểu năng tuần hoàn não

Não và tim là hai cơ quan trọng bậc nhất của cơ thể. Con người có thể nhịn ăn 3-4 ngày nhưng nếu không thở 3-5 phút, tế bào não sẽ bị tổn thương nặng và nếu không thở sau 8-10 phút, tổn thương não sẽ không hồi phục được (mất não). Còn tim thì phải làm việc liên tục suốt đời để bơm máu nuôi dưỡng cơ thể, ngay cả khi cơ thể ngủ và các cơ quan khác được nghỉ ngơi, thư giãn.

Một bệnh lý khá phổ biến ở não là thiểu năng thuần hoàn não, có thể do nhiều nguyên nhân gây ra nhưng tựu trung là do tế bào não thiếu oxy và các chất dinh dưỡng khác cho các tế bào.

Khi chúng ta mắc bệnh và được tiêm hoặc uống thuốc trong điều kiện áp suất bình thường (áp suất khí quyển), lượng oxy tuy được huyết sắc tố trong hồng cầu vận chuyển đến tế bào nhưng vẫn khó hoà tan vào tế bào. Dù lưu lượng tuần hoàn và lượng máu tăng lên nhưng thực tế lượng oxy vẫn thiếu. Nhất là trong trường hợp thiếu máu hoặc ngộ độc, khả năng vận chuyển oxy của Hemoglobin giảm nhiều. Cách điều trị trong thời điểm này giúp khắc phục các nhược điểm trên là liệu pháp oxy cao áp.

Điều trị bằng oxy cao áp có thể làm tăng hoặc giảm lượng oxy hoà tan vào máu, giúp điều chỉnh hàm lượng oxy trong tế bào của các cơ quan trọng yếu trong cơ thể theo ý muốn và theo yêu cầu chữa bệnh. Đặc biệt lượng oxy hoà tan vào tế bào để nuôi sống các tổ chức tế bào không còn phụ thuộc vào khả năng vận chuyển oxy của huyết sắc tố, oxy cao áp còn có tác dụng hạn chế viêm tắc mạch máu, tạo thuận lợi cho lưu lượng máu đến tim và não tốt hơn.

Liệu pháp oxy cao áp cho kết quả rõ rệt: phục hồi được chức năng của các cơ quan, nhất là tim, não, gan, phổi, thận...; phục hồi khả năng lao động trí óc và cơ bắp, nhất là trong các trường hợp bị thiếu máu cơ tim hoặc thiểu năng tuần hoàn não, thiểu năng chức năng gan, suy thận và các biến chứng của bệnh tiểu đường type 2 (đặc biệt là chữa các vết loét khó hồi phục của bệnh nhân tiểu đường mà không cần phải phẫu thuật cắt bỏ phần hoại tử...).

GS Nguyễn Địch

Phương pháp rèn luyện sau tai biến xuất huyết não

Sau tai biến xuất huyết não, đa số bệnh nhân bị di chứng liệt nửa người, mắt miệng bị nghiêng lệch, nói năng khó khăn hoặc các di chứng khác...

Về phương diện điều trị đông y, căn cứ vào bệnh tình mà lương y đưa ra các phương pháp trị liệu: tĩnh não, khai khiếu, bồi bổ nguyên khí, sơ thông kinh lạc, hoạt huyết ứ; đồng thời phối hợp châm cứu và dùng thuốc để trị liệu.

Về chủ động rèn luyện: Người bệnh chủ động vận dụng ý thức vào hoạt động tay chân và cơ thể bên bị bệnh (nhưng tuyệt đối không dùng phía bên khỏe mạnh giúp đỡ vận động). Các công năng của con người đều phải qua rèn luyện mới có thể khôi phục nhanh. Tế bào não thoái hoá cần thông qua trị liệu và phương pháp rèn luyện chính xác mới có thể phục hồi và mở mang.

Về vận dụng ý thức: Là phương pháp trị liệu để chỉ huy phía cơ thể có bệnh hoạt động:

1. Khẩn trương và buông lỏng kết hợp nhau

Do thiếu chủ động rèn luyện phía cơ thể có bệnh nên khí huyết không lưu thông, nhất là ở chi trên, tay thường rũ xuống, bàn tay, ngón tay dễ sưng phù, các khớp của cánh tay lỏng lẻo, rời rạc.

Khởi đầu rèn luyện là cử động giơ lên. Cơ bắp của cánh tay, khớp cổ tay, ngón tay khẩn trương, thậm chí rung động, nhưng ngày càng phải cố gắng giơ cao hơn. Sau đó, dần dần hạ xuống, vận dụng ý niệm kéo cánh tay buông lơi hạ xuống đến độ thấp nhất. Lặp đi lặp lại nhiều lần mà tiến hành "một khẩn, một lơi" tạo cho khí huyết được lưu thông. Dần dần cánh tay và vai sẽ khôi phục, bàn tay, ngón tay sưng phù trở lại bình thường.

2. Động và tĩnh kết hợp nhau

Vận dụng ý niệm để chỉ huy tay, chân, cơ thể. Vì mỗi khớp bàn tay, ngón tay phía bên bệnh không thể động, như không thể nắm tay lại hoặc xòe rộng tay ra, nên người bệnh phải cố gắng vận dụng ý niệm để nắm tay lại như quả đấm hoặc xoè rộng tay lúc buông ra (lúc khẩn, lúc lơi) cho kỳ được. Sau nhiều lần như vậy, bệnh nhân sẽ tự nhiên cử động được. Mặc dầu lúc đầu rất khó khăn nhưng không nên nản chí.

3. Nhập tĩnh

Hai mắt từ từ khép lại, toàn thân thư giãn. Từ trên đầu, dùng ý niệm buông lỏng phía bên tay có bệnh, tuần tự từ khớp vai buông lơi xuống khớp khuỷu tay, tới khớp cổ bàn tay rồi đến lòng bàn tay. Ý niệm buông lỏng tất cả, sau đó là ý niệm buông lỏng hạ chi, từ khớp háng, đến khớp

gối, khớp cổ chân, bàn chân, ngón chân. Sau đó theo phương pháp 1.

4. Động

Hoạt động trên dưới chi (cả tay và chân) phía bên mắc bệnh, nên luyện khoảng 20 phút. Sau nhiều lần rèn luyện như vậy, cơ thể ngày càng tráng kiện, huyết áp, tim mạch có thể khôi phục lại bình thường. Nên nhớ đừng làm cho người bệnh cảm thấy mệt nhọc.

Bệnh nhân cần có tinh thần khổ luyện và lòng tin chiến thắng bệnh tật. Mỗi ngày, ngoại trừ khi ăn cơm, ngủ, phần lớn thời gian còn lại người bệnh đều phải rèn luyện và tự trị liệu.

Thời gian hoạt động cho người bệnh liệt nửa người như sau:

– Động: mỗi lần 20 phút.

– Nhập tĩnh và buông lỏng: mỗi lần 5 – 10 phút. Thời gian tập luyện:

– Mỗi sáng sớm rèn luyện một tiếng đồng hồ (tức tập 2 lần, trong thời gian này nên nghỉ 5 phút và ăn sáng).

– Từ 8 giờ đến 10 giờ sáng (2 tiếng đồng hồ) tập 4 lần và giờ nghỉ nên uống nước trái cây.

– Từ 14 giờ đến 16 giờ (2 tiếng đồng hồ) tập 4 lần và nghỉ xen kẽ mỗi lần tập.

– Từ 19 giờ đến 20 giờ: rèn luyện 1 tiếng đồng hồ (tức tập 2 lần) nghỉ ngơi, thư giãn.

Phương pháp này không hạn chế tư thế nằm, ngồi hoặc đứng.

Lương y Lý Thụ Hòa

Bệnh huyết áp thấp

Huyết áp thấp là một bệnh khá phổ biến, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe, khả năng làm việc và sinh hoạt hằng ngày. Bệnh không chỉ gặp ở người gầy, thiếu cân mà còn gặp ở người mập, dư cân. Tỷ lệ mắc bệnh ở nữ giới cao hơn nam giới.

Huyết áp trung bình của người Việt Nam là 120/80 mmHg. Người bệnh huyết áp thấp có số huyết áp trên thấp hơn 110 mmHg, thậm chí chỉ có 90 mmHg. Đây là trường hợp huyết áp thấp mạn tính không tìm thấy nguyên nhân và cần phân biệt với trường hợp huyết áp thấp cấp tính, rất nguy hiểm, cần được điều trị cấp cứu. Người bệnh huyết áp thấp cấp tính là người có huyết áp bình thường hoặc có huyết áp cao nhưng do bệnh lý nào đó gây mất máu (như chảy máu dạ dày) hay mất nước (như tiêu chảy), khiến huyết áp giảm xuống đột ngột, số huyết áp trên có thể giảm dưới 100 mmHg.

Ngoài ra còn có dạng huyết áp thấp có nguyên nhân rõ rệt do suy tuyến yên, tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận. Nguyên nhân của bệnh có thể tìm ra dễ dàng khi bác sĩ cho người bệnh thực hiện một số xét nghiệm cần thiết.

Triệu chứng:

Do lưu thông máu lên não giảm nên người bệnh thường xuyên có cảm giác hoa mắt, chóng mặt, nhất là khi đang nằm hay ngồi mà đột ngột đứng dậy. Ngoài ra, người bệnh còn thấy mệt mỏi, yếu tay chân khi học tập, làm việc hoặc tập thể dục thể thao đều chóng thấy mệt mỏi. Tình trạng này kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm nên người bệnh thấy mình yếu đuối, không còn sức sống, gây ảnh hưởng nhiều đến việc học tập và năng suất làm việc. Thỉnh thoảng, người bệnh có cơn huyết áp hạ thấp nhiều hơn, có thể gây cơn choáng ngất rất nguy hiểm, nhất là trong lúc đi xe máy.

Cần lưu ý là bản thân huyết áp thấp không gây tai biến mạch máu não (trừ khi có yếu tố xơ vữa động mạch não đi kèm). Riêng bệnh nhân bị xơ vữa động mạch lâu năm nếu mắc thêm chứng huyết áp sẽ có thể gặp những tai biến nguy hiểm.

Điều trị:

Điều trị huyết áp thấp là một việc khó khăn, cần có thời gian chữa trị lâu dài. Điều trị huyết áp thấp gồm 2 phần: không dùng thuốc và dùng thuốc. Chế độ ăn uống và tập thể dục thể thao là những phương cách điều trị không dùng thuốc.

Về tập thể dục hay chơi thể thao, người bệnh nên thực hiện thường xuyên mỗi ngày ở mức trung bình.

Về chế độ ăn, người bệnh nên lưu ý ăn mặn hơn bình thường nhưng không nên ăn quá nhiều chất bổ dưỡng như trứng, thịt mỡ, sữa béo... để tránh béo phì và giữ cân nặng ở mức trung bình (với nam giới người ta lấy chiều cao tính bằng cm trừ đi 100 để được số cân nặng tính bằng kg, ở nữ giới cũng tính tương tự nhưng trừ đi 105).

Lưu ý: Trước khi áp dụng chế độ ăn mặn, người bệnh cần đến bác sĩ để xác định chính xác tình trạng huyết áp của mình. Không ít trường hợp bệnh nhân chóng mặt, mệt mỏi là do huyết áp cao, nếu cứ nghĩ có triệu chứng này là bị huyết áp thấp và tự áp dụng chế độ ăn mặn thì sẽ làm huyết áp càng tăng thêm, có thể dẫn đến những hậu quả xấu hoặc những tai biến nguy hiểm như đứt gân máu...

Trong bữa ăn, người bệnh cần lưu ý tránh những thức ăn gây xơ vữa động mạch như mỡ, trứng... và hạn chế ăn quá ngọt. Nếu người bị huyết áp thấp có thêm chứng xơ vữa động mạch thì cần lưu ý điều trị cả bệnh này vì nó góp phần làm giảm lượng máu lên não, trường hợp nặng có thể gây nhũn não.

Trong trường hợp cần thiết, bác sĩ sẽ cho bệnh nhân thêm một số thuốc hỗ trợ hoạt động của hệ tim để nâng cao huyết áp lên một chút. Khi đang dùng thuốc, người bệnh nên tái khám đúng kỳ. Theo dõi chặt chẽ huyết áp và phát hiện sớm những bất thường để kịp thời báo cho bác sĩ, vì thuốc này ngoài tác dụng nâng huyết áp còn có tác dụng phụ khác.

Khi mắc bệnh huyết áp thấp. Người bệnh đừng quá lo lắng hay bi quan, nếu được điều trị đúng thì một thời gian sau tình trạng huyết áp sẽ được cải thiện, người bệnh sẽ tự tin hơn và sẽ có một cuộc sống bình thường.

BS Phan Hữu Phước

Huyết áp thấp và tai biến mạch máu não

Tai biến mạch máu não là cụm từ chỉ một nhóm bệnh mà Tổ chức Y tế thế giới phân làm 5 loại như sau:

1. Dạng tai biến mạch máu não khỏi hoàn toàn trước 24 giờ, gọi là thiếu máu não cục bộ thoáng qua. Hiện giờ đây được coi là yếu tố nguy hiểm, chưa thật sự là tai biến mạch máu não.

2. Dạng tai biến mạch máu não khỏi hoàn toàn sau 24 giờ gọi là thiếu máu não có hồi phục.

3. Dạng tai biến mạch máu não sau thời gian điều trị chỉ khỏi một phần và để lại di chứng kéo dài.

4. Dạng tai biến mạch máu não không hồi phục và nặng lên liên tục.

5. Dạng tai biến mạch máu não rất nặng dẫn đến tử vong.

Hai thể bệnh 1 và 2 hồi phục rất tốt trước và sau 24 giờ, là dấu hiệu báo trước tai biến mạch

máu não sẽ tái phát sau vài tháng hoặc vài năm nếu không điều trị và phòng ngừa. Ở lần sau, bệnh sẽ nặng hơn lần trước.

Nếu xét theo bản chất tổn thương tại não, người ta phân chia tai biến mạch máu não thành hai nhóm chính là nhũn não (còn gọi là nhồi máu não) và xuất huyết não (còn gọi là chảy máu não hay đứt gân máu).

Nguyên nhân của nhũn não là do lượng máu lên não quá ít hoặc sự lưu thông trong lòng mạch máu đến nuôi não bị cản trở trầm trọng. Lượng máu lên não thấp thường do huyết áp thấp. Nếu huyết áp thấp thường xuyên thì không gây tai biến đột ngột. Nếu huyết áp thấp đột ngột có thể gây ra nhũn não.

Khi số huyết áp trên ở mức 70-80 mmHg thì bắt đầu có hiện tượng thiếu máu não, nếu lượng máu lên não chưa giảm quá 20% thì chưa có tai biến nguy hiểm.

Khi có huyết áp trên giảm dưới 70 mmHg, sẽ xuất hiện thiếu máu não rõ rệt. Lúc này, trên người bình thường (không bị xơ cứng động mạch), các mạch máu ở não sẽ thích nghi bằng cách giãn mạch; còn trên người bị xơ cứng động mạch, khả năng thích nghi này giảm rất nhiều nên tình trạng thiếu máu não thường nặng nề hơn, dễ dẫn đến nhũn não hơn.

Nguyên nhân thứ 2 gây nhũn nào là do có vật cản trong lòng mạch máu đi đến não. Vật cản này có thể là mảng xơ mỡ động mạch bị bong ra từ nơi khác trôi theo dòng máu lên não, hay do cục máu đông trong một số bệnh tim, do bọt khí hay hạt mỡ trong trường hợp gãy xương đùi.

Dạng bệnh thứ 2 của tai biến mạch máu não là xuất huyết não. Bệnh này thường do cao huyết áp (chiếm 80%) hoặc do những nguyên nhân khác như vỡ những mạch máu có hình dạng bất thường.

BS Phan Hữu Phước

Rượu và bệnh tim

Rượu gây xơ gan là điều hầu như mọi người đều biết, nhưng rượu hại tim còn là vấn đề bất ngờ đối với nhiều người. Thực ra, với liều vừa phải, rượu có lợi cho hệ tim mạch của con người. Nhưng khi số lượng và thời gian uống rượu vượt quá giới hạn nào đó thì rượu sẽ là chất độc.

Các bệnh tim mạch do rượu gồm huyết áp cao, đau ngực, rối loạn nhịp tim, tai biến mạch máu não, bệnh cơ tim do rượu, suy tim, đột tử. Suy tim xuất hiện khi uống 80 g ethanol mỗi ngày (khoảng 250 ml rượu mạnh như rượu đế, whisky, vodka, hoặc 1 lít rượu vang) và uống liên tục trong khoảng 10 năm.

– Triệu chứng giai đoạn sớm: Bệnh nhân chưa cảm thấy gì khó chịu, chỉ khi khám bệnh, thấy huyết áp hơi tăng, siêu âm thì thấy tim bắt đầu lớn (cả dày vách tim lẫn giãn buồng tim) đồng thời khả năng giãn ra của tim đã suy giảm. Người trung niên (50 tuổi) bị chóng mặt, hồi hộp, muốn ngất xỉu hoặc ngất xỉu sau khi nhậu xong hay vào ngày hôm sau. Điều nguy hiểm là ngất xỉu lại bị đoán lầm do say rượu. Đây là triệu chứng hay gặp vào các ngày nghỉ lễ, chủ nhật do uống rượu nhiều. Đo điện tim thấy rung nhĩ, cuồng nhĩ hoặc nhanh thất, ngoại tâm thu thất. Một số người có thể bị chết đột ngột (đột tử) vào giai đoạn này do rung thất. Đó là lý do tại sao khi nhậu xong có một số người "đi" luôn, thường được gọi là "trúng gió" (dĩ nhiên cần phải loại trừ nguyên nhân bị đầu độc).

Nếu cai rượu vào giai đoạn này thì tim sẽ phục hồi hoàn toàn.

– Giai đoạn muộn khi đã suy tim: Bệnh nhân thường là một người từ 30-50 tuổi, có tiền sử nghiện rượu gần 10 năm, mỗi ngày 250 ml (1 xị rượu đế), rượu whisky hoặc gần một lít rượu vang... Đến bệnh viện thì mệt, khó thở dữ dội, phải ngồi dậy do suy tim trái, hoặc nặng hơn là kèm cả phù chân, bụng to do suy tim toàn bộ.

Siêu âm tim cho thấy, các buồng tim đều giãn to, chức năng bơm máu bị suy giảm nặng. Các bác sĩ gọi là bệnh cơ tim giãn nở do rượu. Nếu ngưng rượu tuyệt đối vẫn còn khả năng phục hồi. Tuy nhiên nếu tiếp tục uống, không thuốc điều trị suy tim nào hiệu quả. Tình trạng này là hậu quả của tác dụng độc, trực tiếp của rượu lên cơ tim, do thiếu sinh tố B1 (do khi nhậu thường ít ăn đủ chất dinh dưỡng) thiếu kali.

Uống quá nhiều bia có bị bệnh tim? Dù là rượu whisky, rượu đế, rượu vang hay bia đều có kết quả như nhau. Nhất là một số bia người ta hay pha thêm chất Cobalt nhằm giữ bọt bia lâu tan.

Chẩn đoán bệnh tim do rượu

Gần 80% bệnh nhân bị bệnh tim do rượu không được chẩn đoán sớm và đúng, một phần do bệnh nhân ít khi chịu khai thật về tình trạng uống rượu của mình. Hơn nữa, vào giai đoạn sớm, khi khả năng hồi phục hoàn toàn còn rất cao, khám nghiệm lâm sàng và cả các thử nghiệm lại không có gì rõ rệt.

Cách duy nhất là bác sĩ phải nghi ngờ khi thấy bệnh nhân có một vài trong các dấu hiệu sau: rối loạn chức năng gan, cao huyết áp, phì đại tuyến nước bọt mang tai, tay run, lo lắng do trầm cảm, hơi thở có mùi rượu.

Rượu hại tim theo 3 cách:

– Tác hại trực tiếp lên cơ tim: Gây tiêu hủy một số tế bào cơ tim, một số khác phì đại, gây xơ hoá khoảng gian bào.

– Thiếu các chất dinh dưỡng như sinh tố B1 gây suy tim gọi là Beriberi. Ngoài ra, thiếu Potasium gây loạn nhịp tim, thiếu Selenium.

– Chất Cobalt có trong một số loại bia.

Ở đây không nói đến các chất độc mà trước đây hay gặp ở nước ta như rượu đế có pha 1 lít thuốc trừ sâu có Phosphore hữu cơ nhằm làm rượu trong vắt. Hoặc uống methanol (cồn dùng trong y tế) hoặc pha rượu với đủ loại thuốc đáng ngờ khác.

Như vậy, người bệnh cơ tim do rượu không phải chỉ là người chuyên nhậu đói với khế hay me mà là cả những người ăn uống đầy đủ và uống toàn rượu ngoại đắt tiền.

BS Nguyễn Công Tâm


Từ Khóa:

Các bệnh về hệ tuần hoàn || Cẩm nang sức khỏe gia đình || Mẹo vặt trong cuộc sống hàng ngày ||


Quảng cáo: Trái cây sấy xuất khẩu sỉ và lẻ

Xem thêm Cẩm nang sức khỏe gia đình

Ung nhọt ngoài da

Căng thẳng mệt mỏi

Các bệnh về mắt

Bệnh tai mũi họng

Bệnh răng miệng

Bệnh về da và tóc

Các bệnh xương khớp

Bệnh về gan

Lao và các bệnh hệ hô hấp

Bệnh về đường tiết niệu

Các bệnh đường tiêu hoá

Các loại sốt thông thường

Phòng và trị bệnh ung thư

Trà Hoa Thảo Mộc Đà Lạt

Tìm kiếm

Nông Sản Sạch



Kẹo Xoài




Xoài Sấy Dẻo